Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Lịch sử phát triển của thuyết Big Bang - Coggle Diagram
Lịch sử phát triển của thuyết Big Bang
Những phát triển đầu thế kỷ 20
Năm 1910
Vesto Slipher đã xác định rằng hầu hết các tinh vân xoắn ốc (bây giờ gọi là thiên hà xoắn ốc) đang di chuyển ra xa Trái Đất.
Wirtz đã quan sát thấy sự dịch chuyển đỏ có hệ thống của các tinh vân.
Năm 1915
Albert Einsein hoàn thiện thuyết tương đối rộng.
Năm 1917
Albert Einsein áp dụng lý thuyết của mình cho toàn thể vũ trụ. Để cho vũ trụ tĩnh tại như mọi người đương thời cũng như ông từng nghĩ, ông đã đưa thêm một “hằng số vũ trụ học”.
Năm 1922
Alexander Friedmann phát hiện ra vũ trụ đang giãn nở mà không cần một hằng số vũ trụ học như Einstein đã nêu ra.
Năm 1927
Georges Lemaître đề xuất một mô hình mở rộng cho vũ trụ để giải thích các dịch chuyển đỏ quan sát được của tinh vân xoắn ốc và tính toán định luật Hubble
Ông kết luận rằng có một mối quan hệ nhất định giữa độ dịch chuyển đỏ của tinh vân và khoảng cách của chúng với người quan sát.
Năm 1929
Edwin Hubble và Milton Humason đã xây dựng Định luật khoảng cách dịch chuyển đỏ của các thiên hà theo thực nghiệm, ngày nay được gọi là định luật Hubble
Năm 1931
Lemaître đề xuất trong " hypothèse de l'atome primitif " (giả thuyết về nguyên tử nguyên thủy) rằng vũ trụ bắt đầu bằng "vụ nổ phát xạ" của " nguyên tử nguyên thủy" - sau này được gọi là Big bang.
1950 đến 1990
Từ năm 1950 đến năm 1965
Cuối cùng, những quan sát thiên văn, chủ yếu từ các nguồn vô tuyến, bắt đầu ủng hộ Big bang và đánh bại thuyết Trạng thái ổn định.
Lý thuyết Big bang có thể giải thích cả sự hình thành và sự phong phú quan sát được của hydro và heli, trong khi lý thuyết Trạng thái ổn định chỉ có thể giải thích cách chúng được hình thành.
Các vật thể như quasars và radio galaxies được quan sát thấy ở khoảng cách xa phổ biến hơn nhiều so với trong vũ trụ gần.
Phát hiện ra bức xạ nền vi sóng vũ trụ (CBM) vào năm 1964 được coi là hồi chuông báo tử của thuyết Trạng thái ổn định.
Sau một số cải cách, Big bang đã được coi là lý thuyết tốt nhất về nguồn gốc và sự tiến hóa của vũ trụ.
Trong những năm 1970 và 1980
Hầu hết các nhà vũ trụ học đều chấp nhận thuyết Big bang, nhưng vẫn còn một số điều chúng ta chưa biết, bao gồm việc không phát hiện ra tính dị hướng trong CMB và một vài quan sát cho thấy những sai lệch so với quang phổ của vật đen. Do đó, lý thuyết này không được chấp nhận một cách mạnh mẽ.
Thuyết Big Bang so với thuyết Trạng thái ổn định
Trong các thập niên 1920 và 1930 đa số các nhà vũ trụ học ủng hộ cho mô hình "Trạng thái ổn định"
Định luật Hubble đã gợi ý rằng vũ trụ đang giãn nở, nhưng lại mâu thuẫn với nguyên lý vũ trụ học khi nhìn vũ trụ ở các thang khoảng cách đủ lớn, không có hướng hoặc vị trí nào được ưa tiên.
Lý thuyết ‘Big Bang’ theo nghĩa hiện đại – cho rằng vũ trụ được hình thành trong một khoảnh khắc bùng phát năng lượng rồi sau đó giãn nở và nguội đi.
“Thuyết Trạng thái ổn định” của Fred Hoyle, tức là lý thuyết về một vũ trụ không thay đổi, một vũ trụ như nhau tại mọi thời điểm và vũ trụ này là vĩnh viễn, nó không có điểm bắt đầu cũng không có điểm kết thúc.
Trên thực tế, Hoyle là người đặt ra tên cho lý thuyết của Lemaître, gọi nó là ý tưởng “Big bang” trong một chương trình phát thanh vào ngày 28/03/1949
Những hình thành ban đầu
Thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên
Aristotle đề xuất một vũ trụ có Trái Đất làm trung tâm trong đó Trái Đất là cố định và vũ trụ là hữu hạn trong phạm vi nhưng vô hạn trong thời gian.
Thế kỷ thứ 6 - 12
John Philoponus đề xuất một vũ trụ hữu hạn về thời gian.
Ngược lại với các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, các nhà triết học và nhà thần học thời trung cổ đã phát triển khái niệm về vũ trụ có quá khứ hữu hạn với khởi đầu.
Năm 1225
Robert Grosseteste mô tả sự ra đời của Vũ trụ trong một vụ nổ và sự kết tinh của vật chất trong bài luận De Luce (On light).
Năm 1791
Erasmus Darwin, một nhà triết học, đã đưa ra suy đoán về việc vũ trụ giãn nở và co lại theo chu kỳ.
Năm 1848
Edgar Allan Poe trạng thái ban đầu của vật chất là một "Hạt nguyên thủy" duy nhất.
Từ năm 1990 trở đi
Năm 1990
Các phép đo từ vệ tinh COBE cho thấy quang phổ của CMB khớp với vật đen 2,725 K với độ chính xác rất cao, độ lệch chỉ 1 phần 100 000.
Năm 1998
Các phép đo siêu tân tinh xa xôi cho thấy sự giãn nở của vũ trụ đang tăng tốc, và điều này được ủng hộ bởi các quan sát khác bao gồm các quan sát CMB trên mặt đất và các cuộc khảo sát độ dịch chuyển đỏ của thiên hà lớn.
Năm 1999–2000
Các quan sát CMB trên khinh khí cầu Boomerang và Maxima cho thấy hình học của vũ trụ gần như phẳng.
Năm 2001
Khảo sát dịch chuyển đỏ thiên hà 2dF đã đưa ra bằng chứng thuyết phục rằng mật độ vật chất gần bằng 25-30% mật độ tới hạn. Cùng với kết quả CMB về vũ trụ phẳng, điều này cung cấp bằng chứng chắc chắn về hằng số vũ trụ hoặc năng lượng tối tương tự.
Từ năm 2001 đến năm 2010
Tàu vũ trụ WMAP của NASA đã chụp những bức ảnh rất chi tiết về vũ trụ bằng bức xạ nền vi sóng vũ trụ. Những bức ảnh có thể được diễn giải để chỉ ra rằng vũ trụ đã 13,7 tỷ năm tuổi (sai số trong một phần trăm) và mô hình Lambda-CDM và “lý thuyết lạm phát” (Cosmic inflation) là đúng.
Năm 2013 và 2015
Tàu vũ trụ Planck của ESA đã công bố những hình ảnh chi tiết hơn về bức xạ nền vi sóng vũ trụ, cho thấy sự nhất quán với mô hình Lambda-CDM ở độ chính xác cao hơn nữa.
Năm 2020
Các nhà khoa học công bố một nghiên cứu cho thấy rằng vũ trụ không còn giãn nở với tốc độ như nhau theo mọi hướng và do đó giả thuyết đẳng hướng được chấp nhận rộng rãi có thể sai.