Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược,…
Bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược, nhân dân miền bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965-1973)
-
II. MIỀN BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA MĨ, VỪA SẢN XUẤT VÀ LÀM NGHĨA VỤ HẬU PHƯƠNG (1965 – 1968)
- Mĩ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại Miền Bắc
- Ngày 5/8/1964, Mỹ dựng lên "sự kiện vịnh Bắc Bộ" cho máy bay ném bom, bắn phá một số nơi ở miền Bắc (cửa sông Gianh, Vinh - Bến Thủy)...
-
- Ngày 7/2/1965, Mỹ ném bom thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ... chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.
-
- Phá tiềm lực kinh tế - quốc phòng, phá công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.
- Ngăn chặn chi viện từ bên ngoìa vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam.
- Uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
- Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất vừa làm nghĩa vụ hậu phương.
-
-
III. CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” VÀ “ĐÔNG DƯƠNG HÓA CHIẾN TRANH” CỦA MĨ (1969 – 1973)
- Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ.
Sau thất bại trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mĩ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, thực hiện chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh”.
- Âm mưu: “Dùng người Việt đánh người Việt” mở rộng thành “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.
-
- Tăng cường lực lượng quân đội Sài Gòn.
- Mở rộng chiến tranh sang Lào và Cam-pu-chia.
- Hòa hõa với Trung Quốc và Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước này cho Việt Nam.
- Tăng cường đánh phá miền Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân.
- Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân Miền Nam kiên cường chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ, thu được nhiều thắng lợi:
-
b. Mặt trận quân sự
- Từ 30/4 đến 30/6/1970, liên quân Việt – Cam-pu-chia đã đập tan cuộc hành quân xâm lược Cam-pu-chia của Mĩ và chính quyền Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 17000 tên địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn.
- Từ ngày 12/2/ đến 23/3/1971, liên quân Việt – Lào đập tan cuộc hành quân mang tên “Lam Sơn 719” của Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 22000 tên địch, buộc quân Mĩ và quân đội Sài Gòn phải rút khỏi Đường 9 – Nam Lào, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.
- Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972
- Ngày 30/3/1972, quân dân Việt Nam mở cuộc tiến công chiến lược, đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tấn công chủ yếu, rồi phát triển rộng khắp miền Nam, kéo dài trong năm 1972.
- Đến cuối tháng 6/1972, quân ta chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch là Quảng Trị Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, diệt 20 vạn quân Sài Gòn, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn.
- Giáng đòn nặng nề vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
- Buộc Mĩ tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại cuộc chiến tranh xâm lược, thừa nhận sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
IV. MIỀN BẮC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA MĨ VÀ LÀM NGHĨA VỤ HẬU PHƯƠNG (1969 – 1973)
- Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội
- Nông nghiệp: khuyến khích sản xuất, chú trọng chăn nuôi, thâm canh tăng vụ (5 tấn/ha), sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với 1968.
- Công nghiệp: Khôi phục và xây dựng nhiều cơ sở, xí nghiệp công nghiệp. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với 1968.
- Giao thông vận tải: nhanh chóng khôi phục.
- Văn hóa, giáo dục, y tế: được phục hồi và phát triển.
- Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương:
-
b. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần II, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương
- Miền Bắc tiếp tục chuyển sang kinh tế thời chiến, đảm bảo sản xuất và giao thông thông suốt.
- Từ 14/12/1972, sau 2 tháng ngưng ném bom để hỗ trợ cho mưu đồ chính trị và ngoại giao mới, Nixon mở cuộc tập kích bắn phá dữ dội Hà Nội, Hải Phòng bằng B52 trong 12 ngày đêm (từ 18/12/1972 đến 29/12/1972) nhằm giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta ký hiệp định có lợi cho Mỹ => Quân dân miền Bắc đánh bại cuộc tập kích của Mỹ, làm nên trận: “Điện Biên Phủ trên không”. Ta hạ 81 máy bay (34 chiếc B52, 5 chiếc F111), bắt sống 43 phi công Mỹ.
- Tính chung trong chiến tranh phá hoại lần II, ta hạ 735 máy bay (61 B52, 10 F111), 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến hàng trăm phi công.
- Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” của quân dân Miền Bắc đã buộc Mỹ phải tuyên bố ngưng các hoạt động chống phá miền Bắc (15/1/1973) và ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
- Miền Bắc chi viện miền Nam
- Đảm bảo tiếp nhận hàng viện trợ từ bên ngoài và chi viện theo yêu cầu của tiền tuyến miền Nam, cả Lào và Campuchia.
- 1969 - 1971: hàng chục vạn thanh niên nhập ngũ 60% vào miền Nam, Lào, Campuchia. Năm 1972, 22 vạn thanh niên nhập ngũ vào chiến trường Đông Dương.
- Viện trợ khối lượng vật chất tăng 1,6 lần trước kia (1972: tăng 1,7 lần so với 1971).
-