Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
CHƯƠNG 2: CÁC CHỦ THỂ CỦA QUAN HỆ LAO ĐỘNG - Coggle Diagram
CHƯƠNG 2:
CÁC CHỦ THỂ CỦA QUAN HỆ LAO ĐỘNG
Cơ chế 2 bên
Theo ILO, cơ chế hai bên là bất kỳ quá trình nào mà bằng cách đó những sự dàn xếp hợp tác trực tiếp giữa NSDLĐ & NLĐ (hoặc các tổ chức đại diện của họ) được thành lập, được khuyến khích và được tán thành.
Không hoạt động độc lập, tách rời hoàn toàn khỏi sự tác động từ phía Nhà nước để tránh các nguy cơ xung đột. Luôn vận hành trong khuôn khổ luật pháp, chính sách quy định do Nhà nước ban hành.
Được hình thành qua việc tương tác trực tiếp, tương đối thường xuyên giữa NLĐ với NSDLĐ thường ở cấp ngành, địa phương và doanh nghiệp vì lợi ích riêng của mỗi bên và vì lợi ích chung mà hai bên cùng tìm kiếm
Để vận hành có hiệu quả
Nhà nước đóng vai trò là người tạo cơ sở pháp lý, đặc biệt những luật lệ điều chỉnh lĩnh vực quan hệ lao động rõ ràng, minh bạch, ít thay đổi, có tính thực thi cao.
Các tổ chức trung gian, hòa giải, tòa án lao động tham gia giải quyết các xung đột, dàn xếp các bất đồng trong trường hợp hai bên không đạt được thỏa thuận chung, hoặc không tự giải quyết được.
NLĐ & NSDLĐ bình đẳng thương lượng và tự dàn xếp các vấn đề về tiền công, điều kiện làm việc,... để thiết lập quan hệ thuê mướn sức lao động dưới sự tác động của quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường lao động.
Các đại diện của NLĐ & NSDLĐ đảm bảo năng lực đủ mạnh, hoạt động tích cực và tương đối độc lập trên cơ sở hành lang pháp lý do Nhà nước ban hành để thể hiện rõ vai trò đại diện của họ trong thương lượng nhằm đảm bảo lợi ích của các bên liên quan.
Cơ chế 3 bên
Theo ILO, cơ chế ba bên là sự tương tác tích cực của Chính phủ,NSDLĐ & NLĐ (qua các đại diện của họ) như là các bên bình đẳng và độc lập trong các cố gắng tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề cùng quan tâm.
Quá trình bao gồm việc tham khảo ý kiến, thương lượng hoặc cùng ra quyết định, phụ thuộc vào cách thức đã được nhất trí giữa các bên liên quan.
Cơ chế ba bên là cơ chế phối hợp giữa Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động. Không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của Nhà nước.
Chủ yếu vận hành ở cấp quốc gia, ít vận động ở cấp ngành, địa phương và không tồn tại ở cấp DN
Các bên tham gia nhất thiết phải thông qua tổ chức đại diện.
Mức độ bình đẳng giữa các chủ thể không hoàn toàn bình đẳng, chỉ có sự bình đẳng giữa NLĐ với NSDLĐ.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất và có quyền quyết định mức độ tham gia của các bên, có quyền lựa chọn tổ chức đại diện của mỗi bên tham gia vào quá trình đàm phán, đối thoại xã hội và là người ra quyết định cuối cùng.
Về bản chất: là một quá trình dân chủ hóa mqh lao động, là cơ chế hợp tác, chia sẻ quyền lực và trách nhiệm giữa Nhà nước, NLĐ & NSDLĐ.
Thông qua sự hợp tác ba bên mà có thể hình thành các chính sách và quy định pháp luật phù hợp
=> luôn tạo thế cân bằng (tương đối) và đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm không chỉ của NSDLĐ, NLĐ mà của cả Nhà nước trong việc điều hoà mqh chung, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
cơ chế 3 bên trong QHLĐ
Chia sẻ thông tin: là hình thức khởi đầu, đơn giản nhất.
Thảo luận ba bên: có thể diễn ra mang tính tự nguyện hoặc bắt buộc.
Đàm phán 3 bên: thường diễn ra ở cấp TW, là công cụ để đưa ra chính sách quy định.
Cùng nhau ra quyết định: Chính phủ và các đối tác xã hội cùng thảo luận và đàm phán để ra quyết định cuối cùng
Để vận hành có hiệu quả
Tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường
Đối thoại dựa trên cơ sở dân chủ, độc lập tương đối giữa 3 bên
Chính phủ phải công bằng với cả hai phía
Tổ chức đại diện của các bên đủ mạnh và tích cực
Cơ chế hai bên vận hành hiệu quả ở cấp ngành, doanh nghiệp
Sự thống nhất giữa cơ chế 2 bên và 3 bên
Cấp QG: Chủ yếu là vận hành cơ chế 3 bên giữa các đối tác xã hội là cơ quan đại diện: Chính phủ (Bộ Lao động), Liên đoàn Lao động, Nghiệp đoàn Giới chủ.
Cấp địa phương: Cơ chế 3 bên vẫn chiếm ưu thế với sự tham gia của chính quyền cấp tỉnh để giải quyết vấn đề địa phương.
Cấp ngành: Cơ chế 2 bên chiếm ưu thế hơn chủ yếu là sự thương lương giữa đại diện NLĐ với đại diện NSDLĐ
Cấp DN: Cơ chế 2 bên tồn tại giữa NSDLĐ & NLĐ hoặc đại diện của họ.
Để cơ chế 2 bên và 3 bên phối hợp hiệu quả:
Chính phủ không nên can thiệp sâu vào những vấn đề cụ thể thuộc cơ chế hai bên giải quyết
+Chính phủ phải lựa chọn tổ chức thực sự đại diện cho hai phía tham gia vào đối thoại xã hội và phải mang tính quyết đoán trong các diễn đàn.
Tăng cường sự tham gia ý kiến của đại diện NLĐ & NSDLĐ trong việc ban hành chính sách, pháp luật về QHLĐ nhằm hướng tới một nền dân chủ thực sự, đặc biệt là dân chủ trong QHLĐ.
=> Tăng sự cam kết của các bên trong việc thực hiện các vấn đề QHLĐ có tiếng nói của họ.