Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược,…
Bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược, nhân dân miền bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965-1973)
- Chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ ở Miền Nam
Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mĩ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.
- “Chiến tranh Cục bộ” là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ, được tiến hành bằng quân đội Mĩ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn, do “cố vấn” Mĩ chỉ huy; dựa vào vũ khí, phương tiện chiến tranh của Mĩ.
- Âm mưu: dựa vào ưu thế quân sự, với quân số đông, vũ khí hiện đại, Mĩ âm mưu nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực, hỏa lực để giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy lực lượng vũ trang cách mạng của Việt Nam trở về thế bị động, phòng ngự.
- Ồ ạt đưa quân Mĩ, quân đồng minh và miền Nam Việt Nam (quân số lúc cao nhất lên tới gần 1.5 triệu tên, trong đó, hơn nửa triệu là quân Mĩ).
- Tăng cường viện trợ quân sự cho chính quyền Sài Gòn.
- Mở các cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào vùng “đất thánh Việt cộng”
- Đẩy mạnh các hoạt động phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.
- Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ
- Chiến thắng Vạn Tường (8/1965).
- Mờ sáng ngày 18/8/1965, Mĩ huy động 9000 quân, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay phản lực chiến đấu, 6 tàu chiến, mở cuộc hành quân Vạn Tường.
- Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của quân Giải phóng miền Nam cùng với dân quân du kích tại địa phương đã đẩy lùi cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 địch, bắn cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, hạ 13 máy bay.
=> Mở ra khả năng đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, mở đầu cao trào “Tìm Mĩ mà đánh, lùng Ngụy mà diệt”.
- Đập tan cuộc phản công của địch trong hai mùa khô (1965 – 1966 và 1966 – 1967).
- Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
- Đập tan cuộc phản công của địch trong hai mùa khô (1965 – 1966 và 1966 – 1967).
- Trong mùa khô 1965 – 1966, địch mở cuộc phản công lớn nhằm vào hai hướng chiến lược chính là Đông Nam Bộ và Liên khu V. => Quân ta trong thế trận Chiến tranh nhân dân đã chặn đánh, tiêu diệt địch ở nhiều hướng, loại khỏi vòng chiến đấu 104 000 tên địch, cùng nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh.
- Trong mùa khô 1966 – 1967, địch miwr cuộc phản công với 895 cuộc hành quân, trong đó có 3 cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định lớn. => Quân dân Miền Nam anh dũng chiến đấu, loại khỏi vòng chiến 151 000 tên địch cùng nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh.
=> Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm”, đánh dấu bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- Mặt trận chính trị - ngoại giao
- Ở hầu khắp các vùng nông thôn, nông dân đã đứng lên đấu tranh chống phá ách kìm kẹp của địch, phá từng mảng “ấp chiến lược”.
- Tại các thành thị, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, học sinh, sinh viên, Phật tử,... diễn ra mạnh mẽ.
- Uy tín của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam trên trường quốc tế được tăng cường.
II. MIỀN BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA MĨ, VỪA SẢN XUẤT VÀ LÀM NGHĨA VỤ HẬU PHƯƠNG (1965 – 1968)
- Mĩ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại Miền Bắc
- Ngày 5/8/1964, Mỹ dựng lên "sự kiện vịnh Bắc Bộ" cho máy bay ném bom, bắn phá một số nơi ở miền Bắc (cửa sông Gianh, Vinh - Bến Thủy)...
- Ngày 7/2/1965, Mỹ ném bom thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ... chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.
- Phá tiềm lực kinh tế - quốc phòng, phá công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.
- Ngăn chặn chi viện từ bên ngoìa vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam.
- Uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
- Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất vừa làm nghĩa vụ hậu phương.
-
-
IV. MIỀN BẮC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA MĨ VÀ LÀM NGHĨA VỤ HẬU PHƯƠNG (1969 – 1973)
- Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội
- Nông nghiệp: khuyến khích sản xuất, chú trọng chăn nuôi, thâm canh tăng vụ (5 tấn/ha), sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với 1968.
- Công nghiệp: Khôi phục và xây dựng nhiều cơ sở, xí nghiệp công nghiệp. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với 1968.
- Giao thông vận tải: nhanh chóng khôi phục.
- Văn hóa, giáo dục, y tế: được phục hồi và phát triển.
- Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương:
-
b. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần II, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương
- Từ 14/12/1972, sau 2 tháng ngưng ném bom để hỗ trợ cho mưu đồ chính trị và ngoại giao mới, Nixon mở cuộc tập kích bắn phá dữ dội Hà Nội, Hải Phòng bằng B52 trong 12 ngày đêm (từ 18/12/1972 đến 29/12/1972) nhằm giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta ký hiệp định có lợi cho Mỹ => Quân dân miền Bắc đánh bại cuộc tập kích của Mỹ, làm nên trận: “Điện Biên Phủ trên không”. Ta hạ 81 máy bay (34 chiếc B52, 5 chiếc F111), bắt sống 43 phi công Mỹ.
- Tính chung trong chiến tranh phá hoại lần II, ta hạ 735 máy bay (61 B52, 10 F111), 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến hàng trăm phi công.
- Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” của quân dân Miền Bắc đã buộc Mỹ phải tuyên bố ngưng các hoạt động chống phá miền Bắc (15/1/1973) và ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
-