Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ - Coggle Diagram
VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ
Văn hóa Việt Nam thời kì sơ sử
1.Thời kì xuất hiện
Cách đây khoảng 4000 năm
Bối cảnh xuất hiện
Sau thời đại đá cũ; bẵng đi một thời gian dài; đến khoảng hơn 4000 năm cách ngày nay; trên đất Đông Nam Bộ xuất hiện một lớp cư dân mới. Họ thuộc chủ nhân của nền văn hoá Đồng Nai thuộc thời đại kim khí (đồng thauvà sắt sớm); sinh sống ở các tiểu vùng sinh thái khác nhau
Từ lưu vực sông Hồng cho đến lưu vực sông Đồng Nai.Thời kì này trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại ba trung tâm văn hoá lớn là Đông Sơn (miền Bắc);Sa Huỳnh (miền Trung) và Đồng Nai (miền Nam)
Văn hoá Đông Sơn (cả giai đoạn tiền Đông Sơn) được coi là cốt lõi của người Việt cổ.
Văn hoá Sa Huỳnh (cả giai đoạn tiền Sa Huỳnh) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Chămpa
Văn hoá Đồng Nai (cả giai đoạn đồng và sắt) lại là một trong những cội nguồn hình thành văn hoá Óc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai- Đa Đảo sinh sống vào những thế kỉ sau công nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ
3.Văn hoá tiền Đông Sơn đến văn hoá Đông Sơn
Vị trí :Nhiều học giả đã thừa nhận rằng chí ít văn hoá Đông Sơn hình thành trực tiếp từ ba nền văn hoá ở lưu vực sông Hồng; sông Mã; sông Cả
Giai đoạn 2000 đến 700 năm TCN
Chế tác công cụ
Trong giai đoạn này con người vẫn sử dụng đá; gỗ; tre; nứa; xương; sừng… để chế tạo công cụ và vũ khí.
Bên cạnh đó; việc xuất hiện của vật liệu mới- đồng; đã gây ra nhữngtác động to lớn đối với kinh tế; xã hội và văn hoá của các cộng đồng người.
Nông nghiệp: Cư dân tiền Đông Sơn là cư dân trồng lúa nước; họ đã biết chăn nuôi một số gia súc như trâu; bò; lợn gà;…
Nghề làm gốm: Đồ gốm đạt độ nung cao hơn; dày và cứng hơn; đa số có màu xanh mốc.
Nghệ thuật :họ đã làm chủ được nghệ thuật nhịp điệu trong ca múa; biểu hiện tính đối xứng chặt chẽ của các mô típ hoa văn trong trang trí. Họ biết tới nhiều dạng đối xứng khác nhau. Điều này cho thấy sự phát triển nhận thức hình học và tư duy chính xác nhờ hoạt động sản xuất nông nghiệp và kĩthuật chế tác đá; đúc đồng.
Vào khoảng thế kỉ VII TCN
Các nền văn hoá bộ lạc mất dần tính địa phương tiến tới chỗ hoà chung vàomột nền văn hoá thống nhất- văn hoá Đông Sơn. Đó là lúc các nhóm bộ lạc liên kết lại trong một quốc gia: nước Văn Lang. Tính thống nhất văn hoá được hiện rõ trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt- Trung cho đến bờ sông Gianh Quảng Bình
Nông nghiệp: cư dân văn hoá Đông Sơn vẫn là cư dân nông nghiệp trồng lúa. Họ canh tác trên nhiều loại đất khác nhau. Hình thức canh tác phổ biến là loại ruộng chờ mưa. Thời kì này họ có thể đã có những kĩ thuật trị thuỷ
như đắp đê chống lụt. Các loại hình nông cụ của cư dân Đông Sơn đã khá đadạng với cuốc; xẻng; mai; thuổng và đặc biệt lưỡi cày bằng kim loại đã tạo nên bước nhảy vọt trong kĩ thuật canh tác.
Nghề luyện kim
Kĩ thuật luyện và rèn sắt cũng khá phát triển; đặc biệt ở giai đoạn cuối của văn hoá Đông Sơn.
Kĩ thuật đúc đồng thau đạt tới đỉnh cao của thời kì này; với một trình độ điêu luyện đáng kinh ngạc. Số lượng và loại hình công cụ; vũ khí bằng đồng tăng vọt. Đặc biệt; người Đông Sơn đã đúc những hiện vật bằng đồng kích thước lớn; trang trí hoa văn phong phú; mà cho tớingày nay nó vẫn là biểu tượng của văn hoá dân tộc. Đó là những trốngđồng; thạp đồng Đông Sơn nổi tiếng; chứng tỏ trình độ kĩ thuật và bàntay tài hoa của người thợ Đông Sơn.
Trang phục: khá phong phú; không phải chỉ biết có ở trần; đóng khổ; mặc vỏ sui như nhiều người thường nghĩ. Dựa trên trang trí trên cán dao găm hình người; hoa văn trên trống đồng và thư tịch cổ; ta biết được ít nhất có bốn kiêủ để tóc. Các tài liệu đều phản ánh lối ăn mặc quần áo theo phương châm giản dị; gọn gàng tới mức tối đa: Ở trần; đóng khố; đi chân đất. Riêng với nữ phổ biến mặc váy thay khố. Tuy vậy cũng có một số áo cánh dài tay; áo xẻ ngực bên trong có yếm. Ngoài ra còn có một số trang phục lễ hội như váy lông chim hay lá kết; khố dài thêu…
Ẩm thực: Khác với cư dân trước đó (ăn gạo nếp là chủ yếu) cư dân Đông Sơn bắt đầu ăn gạo tẻ. Điều này được các nhà nghiên cứu lí giải bằng sự bùng nổ dân số vào giai đoạn đầu của văn hoá Đông Sơn; khiến cho cư dân phải mở rộng diện cư trú đến những vùng đất mới.
Phương thức quảng canh; trồng cấy đại trà ở những vùng đất mới này không thích hợp với giống lúa nếp. Từ đó suy ra hệ quả là gạo tẻ trở thành thành phần chính trong cơ cấu lương thực; gạo nếp trở thành quý hiếm; được dùng chủ yếu trong lễ tết cầu cúng.Ngoài gạo họ còn ăn các loại hoa màu; rau quả;thuỷ sản.
Kiến trúc:Nhà ở của cư dân Đông Sơn được tạo ra bằng những vật liệu dễ bị phá huỷ theo thời gian. Hình dáng nhà có các loại mái cong; mái tròn; và là nhà sàn. Lựa chọn kiểu kiến trúc nhà sàn cũng là sự ứng xử thông minh trước môi trường của người Việt cổ để nhằm tránh thú dữ
Phương tiện di chuyển: về phương tiện đi lại; chủ yếu là thuyền bè; đường vận chuyển chủ yếu là đường sông và ven biển. Ngoài ra còn có đi bộ; gánh
gồng mang vác trên vai; trên lưng. Và con người đã biết thuần dưỡng voi; dùng voi để chuyên chở
Tín ngưỡng :Những nghi lễ và tín ngưỡng giai đoạn này gắn chặt với nghề nông trồng lúa nước. Đó là tục thờ mặt trời; mưa dông; các nghi lễ phồn thực và những nghi lễ nông nghiệp khác như hát đối đáp gái trai; tục đua thuyền; tục thả diều;…
Nghệ thuật :Nghệ thuật âm nhạc là ngành nghệ thuật quan trọng đã khá phát triển thể hiện đời sống tinh thần của cả cư dân Đông Sơn. Nhạc cụ đánglưu ý là trống đồng; sau đó là sênh; phách; khèn.
4.Văn hoá Sa Huỳnh:
-Vị trí:từ Đèo Ngang đến Đồng Nai
Hình thức mai tang : một đặc trưng tiêu biểu của văn hoá Sa Huỳnh là hìnhthức mai táng bằng chum gốm suốt từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn (ngoại trừ mộ huyệt đất ở Bình Châu- Quảng Ngãi). Trên địa bàn phân bố của văn hoá Sa Huỳnh từ gò đồi phía Tây cho đến đồng bằng ven biển và hảiđảo phía Đông; đã phát hiện nhiều khu mộ- những bãi mộ chum rộng lớn; nhiều tầng lớp với những loại hình vò; chum mai táng hình cầu; hình trứng; hình trụ có kích thước lớn nắp đậy hình nón cụt hay lồng bàn; phân bố thànhcụm hay lẻ tẻ
Nông nghiệp:Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của những cư dân nông nghiệp trồng lúa ở những đồng bằng ven biển. Tuy vậy nền kinh tế của họ là nền kinh tế đa thành phần; họ sớm biết khai thác những nguồn lợi của biển; của rừng,…
Nghề luyện kim :đồng thau đã được người Sa Huỳnh sử dụng để chế tác công cụ và vũ khí. Sang tới giai đoạn cuối; đồ sắt chiếm lĩnh cả về số lượng và chất lượng. Nét độc đáo của cư dân Sa Huỳnh là kĩ thuật chế tạo đồ sắt (chủ yếu bằng phương pháp rèn). Nếu thống kê các đồ sắt Sa Huỳnh đã đượcphát hiện đến nay thì số lượng lên đến hàng trăm chiếc; chủng loại đa dạng gồm rựa; dao quắm; giáo; mai; liềm; thuổng; kiếm ngắn;…
Nghề làm gốm:Nghề gốm rất phát triển với nhiều loại chum; vò; bát bồng; đèn; hình bình lãng hoa; bình con tiện; cốc cao chân… và vô số những đồ gia dụng.Gốm được trang trí phong phú với những đồ án phức tạp kết hợp tômàu; khắc vạch. Nhiều đồ gốm được nung ở nhiệt độ cao; lửa được khống chế tốt (đôi khi cứng như sành)
Văn hóa Việt Nam thời kì tiền sử
1.Thời gian xuất hiện
Có thể tính từ khi con người bắt đầu có mặt trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỉ I TCN.
Bối cảnh xuất hiện
Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chiếc nôi của loài người. Cách đây khoảng 40- 50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam mang nặng đặc trưng nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sống của con người
Đặc trưng văn hóa
Thời kì đồ đá cũ
Đã xuất hiện các công cụ thô sơ. Trên bề mặt Núi Đọ; các nhà khảo cổ học thu nhặt được hàng vạn mảnh ghè
có bàn tay gia công của người nguyên thuỷ.
-Những công cụ đá này rất thô sơ; chứng tỏ “tay nghề” ghè đẽo còn rất vụng về.
-Người ta tìm thấy ở đây 8 chiếc rìu tay; loại công cụ được chế tác cẩn thận nhất của người vượn. Sau văn hoá Núi Đọ; các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ thuộc hậu kì đá cũ ở Việt Nam. Đó là văn hoá Sơn Vi (xã Sơn Vi; huyện Lâm Thao; tỉnh Phú Thọ).
Thời gian vào khoảng từ 20 đến 15 nghìn năm TCN; con người đã cư trú trên một địa bàn rất rộng; họ là chủ nhân của nền văn hoá Sơn Vi từ Lào Cai ở phía Bắc đến Bình Trị Thiên ở phía Nam; từ Sơn La ở phía Tây đến vùng sông Lục Nam ở Phía Đông. Người Sơn Vi sống chủ yếu trên các gò đồi của vùng trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ngoài ra; người Sơn Vi còn sống cả trong các hang động núi đá vôi
Kỹ thuật mài đá: Con người dùng đá cuội để chế tác công cụ.Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kĩ thuật chế tác; đã có nhiều hình loại ổn định. Tiêu biểu cho công cụ của các cư dân Sơn Vi là những hòn đá cuội được ghè đẽo ở hai cạnh. Đa số là công cụ chặt; nạo hay cắt; có loại cắt ngang ở một đầu;có loại có lưỡi dọc ở rìa cạnh; có loại công cụ có lưỡi chạy xung quanh theo rìa tròn của viên cuội; hoặc có lưỡi ở hai đầu.Dựa vào kĩ thuật chế tác công cụ của cư dân Sơn Vi; giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng họ đã có tư duy phân loại. Tư duy phân loại này thể hiện trong lựa chọn nguyên liệuđá và trong sự đa dạng của các loại hình công cụ.
Người nguyên thủy đã biết dùng lửa.
+Thủ tục mai tang: người nguyên thủy chôn người chết cạnh nơi ở việc chôn người chết trong nơi cư trú nói lên niềm tin của người nguyên thuỷ về một thế giới khác; mà ở đó người chết vẫn tiếp tục “sống”. Những công cụ lao động được chôn bên cạnh người chết đã chứng tỏ niềm tin ấy.
Thời kì đồ đá mới
Giai đoạn tiền kì
Cách đây khoảng một vạn năm đã có những thay đổi quan trọng; đánh dấubước tiến mới trong lối sống của con người. Loài người bước vào thời đại đồđá mới. Thời đại đá mới được đặc trưng bởi những tiến bộ về phương thức sản xuất cũng như kĩ thuật sản xuất. Toàn trái đất trở nên ấm; ẩm ướt; khí hậu môi trường có những biến đổi lớn; thuận tiện cho sự tồn tại; phát triển của con người; động và thực vật. Thời kì này con người nhận biết; tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá; đất sét; xương; sừng; tre; gỗ…
Kĩ thuật chế tác đá được hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao; loại hình công cụ nhiều
Đặc biệt con người đã biết làm gốm
Thuần dưỡng động vật và cây trồng
Bắt đầu sống định cư; dân số gia tăng.
Bước đầu xuất hiện một nền nông nghiệp sơ khai:Gần đây; người ta đã tìmthấy hạt và quả của nhiều loài cây thuộc họ rau đậu và họ bầu bí; được coi làđã thuần dưỡng trong một số di chỉ văn hoá . Cuộc sống định cư tương đối làmột nhân tố tạo cho sự nảy sinh nghề trồng trọt. Tất nhiên vai trò của nó cònrất nhỏ bé so với các hoạt động truyền thống hái lượm; và săn bắt (bắn). Có lẽ các hoạt động này vẫn là hoạt động kinh tế cơ bản của họ.
Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn hoá Hoà Bình. Cư dân văn hoá Hoà Bình sống chủ yếu trong các hang động núi đá vôi. Họ thích cư trú trong cáckhu vực gần cửa hang; thoáng đãng; có ánh sáng. Môi trường hoạt động của họ rất rộng bao gồm hang- thung- thềm sông; suối. Vì thế; văn hoá Hoà Bìnhcòn được gọi là nền văn hoá thung lũng. Văn hoá Hoà Bình kéo dài trong khoảng từ 12.000 đến 7000 năm cách ngày nay
Giai đoạn trung kì và hậu kì
Không gian sinh sống: con người đã mở rộng không gian sinh tồn; con người đã chiếm lĩnh và chinh phục hai vùng sinh thái: núi; trước núi và ven biển. Ở vùng sinh thái ven biển; nghề đánh cá phát triển mạnh. Thời kì này được đặc trưng bởi các nền văn hoá Đa Bút (Thanh Hoá); Quỳnh Văn (NghệAn); Hạ Long…với những làng định cư lâu dài; ổn định; trong đó; bên cạnh quan hệ dòng máu đã xuất hiện và ngày càng nhiều những quan hệ láng giềng phức tạp
+Tri thức Cư dân thời đại đá mới có một tri thức phong phú về tự nhiên; những hang động và những nơi cư trú khác của họ đều là những địa điểm thuận lợi cho sinh hoạt và sản xuất. Điều này cho thấy con người thời bấy giờ đã biết thích nghi một cách hài hoà với tự nhiên.Tư duy về thời gian vũ trụ còn được thể hiện bằng những hoa văn; kí hiệu biểu thị mặt trời như hìnhtròn; hình chữ…vẽ trên đồ gốm. Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình thành một loại nông lịch sơ khai
Đã có sự xuất hiện của nghệ thuật Thời kì này cũng để lại những dấu vết của nghệ thuật như những hiện vật bằng xương có vết khắc hình cá; hìnhthú và những hình vẽ trên vách hang Đồng Nội; những mảnh thổ hoàng… Người Hoà Bình
Tín ngưỡng: Thời kì này cũng xuất hiện những tín ngưỡng nguyên thuỷ. Là cư dân nông nghiệp nên mưa; gió và đặc biệt là mặt trời đã trở thành một trong những thần linh quan trọng đối với con người