Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Những điểm chính trong lí thuyết về trẻ em, DEWEY, MONTESSORI, ERIKSON,…
Những điểm chính trong lí thuyết về trẻ em
Dewey tin rằng trẻ có thể học tập tối nhất khi chúng tương tác với người khác, làm việc sát cánh cùng nhau và hợp tác với các bạn đồng lứa cũng như với người lớn.
Theo Dewey, những hứng thú của trẻ sẽ tạo ra cơ sở cho việc lập kế hoạch chương trình giáo dục. Và giáo viên khi lập kế hoạch cho những trải nghiệm học tập cần cân nhắc đến những hứng thú và nền tảng vốn có của mỗi trẻ em cũng như nhóm cọng đồng mà các em thuộc về.
Dewey tin rằng giáo dục là một phần của đời sống. Giáo dục nên hướng tới những gì mà con người cần biết ngay trong hiện tại. Dewey cho rằng chương trình học cần được thiết kế dựa trên gia đình, môi trường, công việc và những tình
huống đời sống thực tế khác.
Dewey cho rằng giáo viên cần phải nhạy cảm với những giá trị và nhu cầu của các gia đình. Giá trị và văn hóa của các gia đình như cộng đồng cần được phản ảnh và làm sâu sắc thêm những hoạt động diễn ra tại trường.
Dewey tin rằng các giáo viên không chỉ có trách nhiệm dạy các môn học mà còn dạy cách sống thế nào trong xã hội, góp phần hình thành nên xã hội.
Ông tin rằng các giáo viên cần tin tưởng vào tri thức cũng như kinh nghiệm của mình và sử dụng cả hai thứ đó để tạo ra những hoạt động thích hợp, khuyến khích sự tìm tòi và thiên hướng học tập của trẻ em khi làm việc cùng các em.
Năm 1907, bà mở ngôi trường đâu tiên của mình, việc vận dùng vật dụng và giáo cụ có kích cỡ vừa với trẻ em và quan điểm để trẻ độc lập làm việc được xem là quan điểm quá cấp tiến.
Lí thuyết của Montessori về trẻ em có ảnh hưởng rất lớn tới phương pháp mà tất cả các chương trình giáo dục mầm non được thiết kế hiện nay.
Montessori thừ nhận rằng điểm nhấn mà bà đặt vào việc chuẩn bị môi trường học tập có lẽ là đặc điểm chính yếu nhất mà qua đó mọi người xách định được phương pháp của bà.
Bà tin rằng trẻ học tốt nhất là thông qua những trải nghiệm cảm giác.
Montessori tin rằng trẻ em muốn và cần được tự chăm sóc bản thân cũng như môi trường xung quanh. Bà tin rằng, để trẻ lớn và trưởng thành phát triển được các kĩ năng thì người lớn cần tạo cho trẻ cơ hội để các em tự mình làm những việc đó. Nuôi dưỡng tính tự lập là một phần trong di sản của Montessori
Bà tin rằng mếu bạn muốn dạy học thì bạn cần phải biết mọi thứ về những người bạn muốn dạy. Mọi đứa trẻ đều có thể học được. BÀ bị thuyết phục rằng, nếu trẻ không chịu học thì đó là vì người lớn chưa chịu lắng nghe đúng mức và quan sát kĩ càng.
Lí thuyết của Erikson về sự phát triển tâm lí xã hội, thường được gọi là Tám giai đoạn đời người, bao trùm toàn bộ cuộc đời của một con người.
Quan điểm của Erikson cho rằng mỗi giai đoạn phát triển có một nhiệm vụ cần được hoàn thành, giải quyết thành công mỗi giai đoạn sẽ ảnh hưởng tới giai đoạn kế tiếp và khi trải qua mỗi giai đoạn, chúng ta định hình được điểm mạnh hoặc yếu của tính cách dựa trên sự phát triển diễn ra trong giai đoạn đó.
Erikson bị thuyết phục rằng, trong những năm tháng đầu đời, mẫu hình phát triển sẽ quy định, hoặc ít nhất cũng ảnh hưởng tới hoạt động và tương tác của một người trong suốt phần đời còn lại.
Erikson thấy rằng thời kì thơ ấu rất quan trọng đối với sự phát triển của niềm tin, tự chủ và sự khởi đầu ở trẻ em, nhưng ông không cho rằng tất cả sẽ mất đi nếu trẻ gặp khó khăn nào đó trong ba giai đoạn đầu đời này.
Ông cho rằng tương tác của trẻ với môi trường chính là những yếu tố tạo nên quá trình học. Ông muốn nói rằng trẻ học tót nhất khi được tự mình làm việc một cách thực sự và kiến tạo nên sự hiểu biết của riêng mình về những gì đang diễn ra thay vì nhận lấy những cách diễn giải mà người lớn đưa ra.
Ông cho rằng sự tò mò là thứ thúc đẩy quá trình học tập của trẻ. Cũng như Dewey, Piaget tin rằng trẻ chỉ học khi sự tò mò của chúng chưa được thỏa mãn.
Piaget nhấn mạnh tầm quan trọng của trò chơi như là con đường chính để học tập.
Piaget tin rằng sự phát triển trí tuệ của trẻ dựa một phần trên sự phát triển về thể chất, quá trình này chịu ảnh hưởng từ sự tương tác của trẻ với môi trường.
Theo Piaget, sự phát triển nhận thức của trẻ trảu qua 4 giai đoạn: giai đoạn 1 từ 0 - 2 tuổi
giai đoạn 2 từ 2 - 7 tuổi
giai đoạn 3 từ 7 - 11/12 tuổi
giai đoạn 4: 11/12 và lớn hơn
Các quan điểm của Vygotsky đã và đang gây nhiều tranh cãi. Ông phản đối sự phân tích các năng lực của trẻ dựa trên những bài kiểm tra trí tuệ. Việc quan sát cẩn thận trẻ em phải được xem là có giá trị ngang với những điểm số của bài kiểm tra.
Công trình của ông cho thấy sự phát triển xã hội và nhận thức luôn song hành và dựa vào nhau.
Vygotsky tin rằng rất nhiều quá trình học tập diễn ra khi trẻ vui chơi. Ông cho rằng ngôn ngữ và sự phát triển dựa vào nhau.
Đóng góp chủ yếu của Vygotsky đối với sự hiểu biết của chúng ta về sự phát triển của trẻ là việc ông hiểu rõ tầm quan trọng của sự tương tác giữa giáo viên với các bạn đồng lứa trong việc tăng cường tri thức cho trẻ.
DEWEY
MONTESSORI
ERIKSON
PIAGET
VYGOTSKY