Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ - TÔ HOÀI ( Hình tượng sông Đà) - Coggle Diagram
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ - TÔ HOÀI ( Hình tượng sông Đà)
Tác giả
Là nhà văn tài hoa, giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
Tác phẩm của Nguyễn Tuân mang cá tính riêng, độc đáo, phóng khoáng, sự hiểu biết phong phú, cách dùng từ đa dạng và đầy sáng tạo trong sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt.
là một trong 9 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Phong cách sáng tác của tác giả được đánh giá lại bằng một từ “ngông”. Nguyễn Tuân ngông trên sự tài ba, xuất chúng, khí chất hơn người từ ngoài đời sống thực đến đời sống văn chương.
Tác phẩm
kết quả của chuyến đi thực tế ở Tây Bắc của tác giả.
Sông Đà – biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, là chất vàng của tâm hồn, là hình hài của tổ quốc thân yêu.
Người lái đò Sông Đà in trong tùy bút Sông Đà (1960)
Trữ tình
Hình dáng
“tuôn dài ... như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc”,
vẻ đẹp bình dị như “một dải dây thừng” hay lại như "một mái tóc mun… áng tóc trữ tình"
Sông Đà gợi cảm, mang vẻ đẹp thơ mộng
sông Đà như một “cố nhân”, có ánh sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”
“bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”
Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.
Màu sắc
mùa thu lại lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa
mùa xuân thì mang trong mình màu xanh ngọc bích
Hung bạo
ghềnh Hát Loóng
“dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió
điệp từ, điệp cấu trúc, tăng tiến
gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.
Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè”
vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây.
Sự hung bạo, dữ dội và đáng sợ của dòng sông hiện hình trên mặt ghềnh.
như “đòi nợ suýt” bất cứ ai đi qua quãng ấy,…
Cái hút nước:
Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái, có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác.
như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
thở và kêu như cửa cống cái bị sặc
Sử dụng các biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.
Đá bờ sông
Tác giả dựng lên một không gian cao vút, sâu thẳm mà lại thật nhỏ, thật hẹp.
“lòng sông hẹp”
“có quãng con hươu, con nai còn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia”
“Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”.
“chỗ vách đá…như một cái yết hầu”, “nhìn từ dưới lên như nhìn tòa nhà cao vừa tắt phụt đèn điện”,…
Thác nước
“Thế rồi nó rống lên”
như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
Như bầy thủy quái hung hăng
Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”.
Đá thác như "mai phục" sẵn sàng
Đá
“cả một chân trời đá” → đá sông Đà nhiều vô kể.
từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”.
Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.
Thach trận
Trùng vi thứ nhất
Sông Đà chia thành năm cửa trận (bốn cửa tử và một cửa sinh), cửa sinh được ngụy trang nằm lập lờ bí hiểm phía tả ngạn.
Sóng nước đá trái, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền.
Nước như một đô vật “túm thắt lưng ông đò đòi vật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”.
Trùng vi thứ 2
Thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch sang phía bờ hữu ngạn nhằm đánh lừa con thuyền.
Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá
Trùng vi thứ 3
Ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ.
Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử.
Giá trị
Nghệ thuật
Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt, vận dụng được nhiều tri thức văn hóa và nghệ thuật vào trong tác phẩm.
Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị.
Bút pháp: kết hợp hài hào giữa hiện thực và lãng mạn.
Ngôn ngữ hiện đại kết hợp với ngôn ngữ cổ xưa.
Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật độc đáo: liên tưởng, tưởng tượng thú vị; so sánh nhân hóa quái dị, mới lạ…
Nội dung
một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha
ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
So sánh
Giống nhau
Sông Đà và sông Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình
Sông Đà: dáng sông mềm mại tựa mái tóc tuôn dài tuôn dài, màu nước thay đổi qua từng mùa, vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính…
Sông Hương: với dòng chảy dịu dàng và đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương còn mang vẻ đẹp của người con gái ngủ mơ màng chờ người tình mong đợi đánh thức.
Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp của sự hùng vĩ, dữ dội.
Vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà được thể hiện qua sự hung bạo và dữ dội của nó trên nhiều phương diện khác nhau cảnh trí dữ dội, âm thanh ghê rợn, đá sông Đà như đang bày trùng vi thạch trận.
sông Hương chảy dữ dội tựa 1 bản trường ca của rừng già, tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại….
sông Hương chảy dữ dội tựa 1 bản trường ca của rừng già, tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại….
Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân xứ Huế.
Khác nhau
Sông Đà
nhà văn tập trung tô đậm nét hung bạo, dữ dội của sông Đà giống như 1 kẻ thù hiểm độc và hung ác
hình ảnh nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá bày trùng vi thạch trận chực lấy đi mạng sống của con người.
làm nổi bật sự tài hoa, tài trí của người lái đò.
Sông Hương
tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn mang dáng vẻ của 1 người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm.
được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu
miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như người mẹ phù sa bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa này từ bao đời nay.
Kết bài
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói - “hung bạo và trữ tình"... (Nguyễn Đăng Mạnh)
Tác phẩm Người lái đò sông Đà ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên vừa hùng dũng, kỳ vĩ lại vừa nên thơ, trữ tình cùng hình ảnh con người lao động bình dị mà tài hoa nơi núi rừng Tây Bắc. Thông qua tác phẩm, Nguyễn Tuân còn thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, yêu thiên nhiên và con người lao động cũng như một tình cảm đặc biệt dành cho vùng cao Tây Bắc.