Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Vợ Nhặt - Coggle Diagram
Vợ Nhặt
Nghệ thuật
Sự sắp xếp tình tiết hấp dẫn, gây hứng thú, tò mò cho người đọc
Ngôn ngữ giản dị, gần gũi, mộc mạc, mang dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ
-
Tâm lí của nhân vật được miêu tả nhuần nhuyễn, nhờ thế bộc lộ phẩm chất của các nhân vật
Khái quát
Tác giả
Kim Lâm, tên thật là Nguyễn Văn Tài
-
Quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
Hoàn cảnh gia đình khó khăn, chỉ học xong tiểu học
-
Sở trường là truyện ngắn, đề tài thường về con người làng quê Việt Nam
-
-
-
Nội dung
Bức tranh năm đói
Hình ảnh người nông dân
Tràng
Một gã trai trẻ, vô tự, nghèo khổ. Sống vật vờ lay lắt dưới xã hội u ám thời thuộc địa
-
Thị
Một người phụ nữ vì đói mà trở nên cau có, bỏ cả danh dự chỉ vì miếng ăn
-
Cụ Tứ
Là một bà cụ cao tuổi, sức yếu, phải lo lắng về con trai và đói kém
-
-
Hình ảnh xóm ngụ cư
-
Người chết nằm khắp nơi, không ngày nào không có xác người bên đường, "không khí bốc mùi ẩm thối của rác rưởi và xác người"
Khung cảnh thê lương, u ám và đầy sự chết chóc
-
Cảnh sinh hoạt hằng ngày
“bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có
độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo"
-
Thiếu cái ăn tới mức phải ăn tới cám, thức ăn thường của gia súc
Một cảnh tượng hết sức thiểu não, cho thấy rõ hiện thực khốc liệt của người dân trong nạn đói
Các nhân vật
Tràng
ngoại hình
Vụng về, thô kệch, có phần xấu xí
"hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch"
Hoàn cảnh
-
Căn nhà tồi tàn, cuộc sống không có gì là chắc chắn
Cha mất sớm, phải làm việc để nuôi mẹ già
-
-
Hành trình thay đổi
Gặp gỡ Thị và "nhặt vợ"
Khi gặp Thị lần đầu, Tràng chỉ hò cho vui thôi chứ không có tình ý gì với Thị
Khi gặp Thị lần hai, bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười và mời cô ta ăn dù không giàu có gì. Đây là một hành động tốt bụng
Khi người đàn bà quyết định theo mình về, Tràng trợn nghĩ về việc có thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”
--> Sống có tình nghĩa, biết quan tâm lo lắng cho người khác, sẵn sàng giúp người khác dù chưa chắc đã có đủ cho chính mình
Khi trên đường về nhà
Vẻ mặt “có cái gì phơn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”.
-
--> Tâm trạng Tràng phấn khởi, vui vẻ. Đã biết tự tôn trọng Thị và bản thân
Khi về tới nhà
Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn của mình vì không có bóng đàn bà
Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
--> Nhận thức được lễ nghĩa và thân phận của mình. Đồng thời nhận biết việc làm của mình có ý nghĩa gì đối với gia đình
Sáng hôm sau
Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, ...)
-
-
-
Thị
Ngoại hình
Quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
Không xinh đẹp, cái đói còn làm xấu hơn
Hoàn cảnh
Không tên tuổi, không quê quán, không gia đình, không người thân
-
Hành trình thay đổi
Khi gặp Tràng lần đầu
Khi nghe câu hò vui của Tràng, Thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
Khi gặp Tràng lần hai
Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
Khi nghe tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ cùng về”, Thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để Thị bấu víu lấy sự sống.
--> Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với Thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.
Về nhà cùng Tràng
Cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại, giống một cô dâu đang về nhà chồng
Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không
Ra mắt mẹ chồng
Phải phép mà chào bà cụ Tứ
Dáng điệu khép nép, ngại ngùng
--> lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với
dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh
Sáng hôm sau
Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, sắp xếp lại nhà cửa, ngôi nhà của bà cụ Tứ giờ đây như được hồi sinh..
Trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa
Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng”
--> Cách hành động lịch sự, tế nhị, cảm thông
Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không đóng thuế mà đi phá kho thóc Nhật
--> Bộc lộ suy nghĩ và hướng nhìn mới của Thị, không cam chịu cuộc đời đói kém
Cụ Tứ
Ngoại hình
-
-
Vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen
người già
-
Hoàn cảnh
-
Nghèo khổ, góa bụa, già nua, ốm yếu, là dân ngụ cư
-
Hành trình thay đổi
-
Khi đã được giải thích
Thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt
-
-
Chấp nhận người đàn bà và mừng vì con trai đã có vợ, bà
mở lòng với nàng dâu mới
Lo lắng, thương xót “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau
sống qua được cơn đói khát này không?
Đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng, lo lắng về tương lai
Sáng hôm sau
Gương mặt “bủng beo u ám” của bà, hôm nay “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường”, “rạng rỡ hắn lên”: bà vui mừng, phấn khởi
Nói “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này”: lòng lạc quan, yêu cuộc sống, hy vọng vào tương lại, gieo vào lòng con cái niềm tin vào tương lai