Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Vợ nhặt - Coggle Diagram
Vợ nhặt
Kim Lân
-
Quê quán: Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh.
Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ học hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong, vừa viết văn.
Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội văn hóa cứu quốc.
Sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim).
Sự Nghiệp
Tác phẩm chính
Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955); Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962
Phong cách sáng tác
-
Có biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật; văn phong giản dị nhưng gợi cảm, hấp dẫn; ngôn ngữ sống động, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày và mang đậm màu sắc nông thôn; am hiểu và gắn bó sâu sắc về phong tục và đời sống làng quê Bắc Bộ.
-
-
-
Nội dung chính
Bức tranh năm đói
Phần đầu tác phẩm, khắc họa khung cảnh làng quê ảm đạm xơ xác trong nạn đói khủng khiếp 1945
Bi kịch nạn đói kinh hoàng và ám ảnh, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.
Thiẻn nhiên
Khung cảnh thê lương, tối tăm và lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”
gió ngăn ngắt, đường làng ngõ xóm xác xơ, heo hút, tiếng quạ kêu gào ghê thiết. cõi âm và cõi dương nhạt nhòa. tất cả đang đứng bên bờ vực cái chết
Chân dung các nhân vật
Nhân vật người vợ nhặt
Không có quê hương, gia đình.
-
là điển hình của nạn nhân trong nạn đói thảm khốc, phải xa xứ lưu lạc vô định, sống bần cùng, rẻ rúng.
Diễn biến tâm lý
Gặp Tràng
Khi thị nghe Tràng nói câu bông đùa thị đã nghĩ là thật và đồng ý theo về ngay mà chẳng suy nghĩ đồng ý về làm vợ
Cơ hội để thị có thể cứu lấy bản thân, bấu víu lấy sự sống giữa những đói khổ vây quanh
Về đến nhà
Khi thấy bà cụ Tứ về, : chào hỏi xong thị chỉ biết lặng lẽ cúi đầu
còn thị ngồi mớm ở mép giường, hai tay thì ôm khư khư cái thúng
Cho thấy sự ý tứ, lịch sự khi mình chưa được công nhận
sự bối rối, ngượng nghịu.
Trên đường về
Rón rén, e thẹn đi sau Tràng
-
Sáng hôm sau
siêng năng, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó.
thị không muốn làm mẹ buồn, thái độ nể nang, ý tứ trước mẹ chồng.
quan tâm tới mọi người xung quanh, có niềm tin vào tương lai sáng lạng.
Nhân vật bà cụ Tứ
Ngôn ngữ
thô kệch, cộc cằn “rích bố cu", "làm đếch gì có vợ,
-
Nhân vật Tràng
Xuất thân
Tràng - con nhà nghèo, nhà có 2 mẹ con, dân xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe thuê.
Ngoại hình
đầu cao, lưng to bè, 2 con mắt nhỏ tí, ngà ngà đắm vào bóng chiều, 2 bên quai hàm bạnh ra
Khi về đến nhà
Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lý do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy
Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, quần áo,...), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
Đoạn kết câu chuyện
-
Đánh thức một điều gì đó thật mới mẻ bên trong Tràng. Anh đã bắt đầu bước gần hơn với con đường cách mạng, bắt đầu có những nhận thức về hành động của bản thân.