Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT, PHƯƠNG PHÁP NÊU VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ - Coggle…
PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT
Tiến trình dạy học
Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm.
3.1 Đề xuất câu hỏi.
Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS đề xuất câu hỏi.
GV cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp từ đó HS đặt câu hỏi liên quan đế bài học.àđể giúp học sinh so sánh
3.2 Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu.
từ những câu hỏi của HS, GV nêu câu hỏi cho HS đề nghị các em đề xuất thực nghiệm để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó.
GV ghi chú lên bảng các đề xuất của HS để các ý kiến sau không trùng lặp.
Khuyến khích HS tự đánh giá ý kiến nhau hơn là ý kiến của GV nhận xét.
Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS đề xuất câu hỏi.
GV cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp từ đó HS đặt câu hỏi liên quan đế bài học.àđể giúp học sinh so sánh
Quan sát tranh và mô hình và ưu tiên thực nghiệm trên vật thật
Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh.
Giáo viên cho học sinh trình bày bằng nhiều hình thức: viết, vẽ, nói, ….
Giáo viên không nhất thiết phải chú ý tới các quan niệm đúng, cần phải chú trọng đến các quan niệm sai.
Giáo viên khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật, hiện tưởng mới.
Bước 5: Kết luận kiến thức mới.
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
Câu hỏi phải phù hợp với trình độ học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò của học sinh.
Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng.
Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học.
là 1 tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học
Nguyên tắc
Các hoạt động giáo viên đề ra cho học sinh được tổ chức theo các giờ học nhằm cho các em có sự tiến bộ dần dần trong học tập. Các hoạt động này gắn với chương trình và giành phần lớn quyền tự chủ về cho học sinh
Tối thiểu 2 giờ một tuần dành cho một đề tài và có thể kéo dài hoạt động trong nhiều tuần. Tính liên tục của các hoạt động và những phương pháp sư phạm được đảm bảo trong suốt quá trình học tập tại trường.
Trong quá trình học tập, học sinh lập luận và đưa ra các lý lẽ, thảo luận về các ý kiến và các kết quả đề xuất, xây dựng các kiến thức cho mình, một hoạt động chỉ dựa trên sách vở là không đủ.
Học sinh quan sát một vật hoặc một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi, có thể cảm nhận được và tiến hành thực nghiệm về chúng.
Mỗi học sinh có một quyển vở thí nghiệm và học sinh trình bày trong đó theo ngôn ngữ của riêng mình.
Mục đích hàng đầu đó là giúp học sinh tiếp cận một cách dần dần với các khái niệm thuộc lĩnh vực khoa học, kĩ thuật...kèm theo một sự vững vàng trong diễn đạt nói và viết.
Khái niệm
Phương pháp Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm tìm tòi- nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên.
Bàn tay nặn bột luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
Bàn tay nặn bột chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra…
Mục tiêu
tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học của học sinh.
Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
Ưu điểm
• Kích thích tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học của học sinh.
• Rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh, kĩ năng xử lí tình huống, kĩ năng phán đoán, lập luận , bảo vệ ý kiến cá nhân.
• . Không phải tốn thời gian cho việc thuyết trình giảng giải.
• . Kiến thức được HS tiếp nhận một cách tự nhiên, thoải mái, không gò ép.
• . HS mạnh dạn tự tin trước đám đông
• Tự chiếm lĩnh kiến thức qua thực nghiệm sẽ nhớ lâu.
Nhược điểm
Do HS phải tìm tòi, khám phá, đưa ra ý kiến, quan sát, thực hành trao đổi, thảo luận nên có thể có những hoạt động phải thực hiện vài lần dẫn đến mất nhiều thời gian
HS có thể đặt ra nhiều câu hỏi, nhiều tính huống khiến GV lúng túng khi xử lí dẫn đến e ngại về tâm lí
Việc tổ chức hoạt động nhóm, tiến hành thí nghiệm còn gặp hạn chế, khó khăn nhất đình và chưa đạt được hiệu quả cao do không gian lớp học chật hẹp, số lượng HS đông.
Thời gian dành cho tiết học có vận dụng PP Bàn tay nặn bột thường vượt quá thời gian của tiết học thông thường
Cơ sở vật chất chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của PP Bàn tay nặn bột(Dụng cụ thí nghiệm chưa đồng bộ, thiếu chính xác)
Mối quan hệ giữa PP Bàn tay nặn bột và các PP khác
Giống nhau: Đều nhằm tổ chức cho HS hoạt động kết hợp thức hóa kiến thức
Khác nhau: Tình huống xuất phát, câu hỏi, nêu vấn đề là những sự vật hiện tượng của thế giới tự nhiên hiện thực xung quanh các em, tạo ra các mâu thuẫn nhận thức làm cơ sở đề xuất các câu hỏi và giả thuyết.
Lưu ý
Dạy học phải tự nhiên nhưng quá trình tìm ra chân lý
Với phương pháp bàn tay nặn bột kể cả học sinh đọc sách trước học thêm trước hoặc biết trước kiến thức thì chưa chắc học sinh hiểu từ tận và đề xuất thí nghiệm chứng minh cho phát biểu đúng. Học sinh sẽ lúng túng khi hỏi lại: vì sao em biết điều đó? Làm thế nào em có thể chứng minh kết luận của em đúng? Nếu dạy trước thì tiết học không hấp dẫn
Phương pháp bàn tay nặn bột chú trọng đến quan niệm ban đầu của học sinh về kiến thức mới sẽ học
Trong chương trình hiện nay có bài học áp dụng cả bài có bài chỉ áp dụng một phần
Sử dụng vở thí nghiệm (vở nghiên cứu) như là một phương tiện tiền ngôn ngữ, tập ghi chép nghiên cứu khoa học
Các biểu tượng học sinh đưa ra có thể dùng có thể sai nhưng giáo viên không đánh giá và cũng không đưa ra câu trả lời. Giáo viên chỉ gợi ý hãy đặt thêm những câu hỏi dẫn dắt học sinh đi tìm câu trả lời cho câu hỏi của chính các em chứ không phải làm thay.
VD: Theo em nó sẽ như thế nào? Em nghĩ (làm) thử xem? Em tìm cách làm nó để xem có đúng không?
hoặc khi học sinh lọc nước mà kết quả vẫn đục, giáo viên chỉ gợi ý: Các em thử xem thiết bị thí nghiệm có vấn đề gì không
Trong quá trình học sinh thực hành giáo viên phải khéo léo theo dõi quan sát học sinh xem các em đang nghĩ gì về vấn đề mà mình đặt ra để nắm được tình hình nếu có điều gì không khớp với dự định ban đầu thì cần phải có sự điều chỉnh cho phù hợp
Không nên cho học sinh biết trước kiến thức của bài học mà phải để cho các em tự khám phá ra chúng. Không để các em sử dụng sách giáo khoa để trả lời câu hỏi mà giáo viên đưa ra vì vậy sẽ làm cho học sinh có thói quen đi ỉ nại không chịu suy nghĩ tìm tòi cho học tập
Sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột không được nhận xét quan điểm của ai đúng, ai sai thông qua thí nghiệm, học sinh sẽ tự đánh giá đúng sai
Phương pháp bàn tay nặn bột nếu chỉ dừng lại ở việc đánh giá bằng điểm số điểm chưa đủ mà cần phải phối hợp đánh giá về năng lực quan sát năng lực tư duy năng lực suy luận phán đoán kỹ năng làm thí nghiệm cách sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt (kể cả trong khi nói và viết), sự hứng thú tìm tòi, sự tò mò ham hiểu biết, sự tham gia tích cực trong giờ học
Trong trường hợp thí nghiệm cần đến các điều kiện, giáo viên phải giúp học sinh khác định được điều kiện của thí nghiệm. VD: về mặt thời gian, môi trường, nhiệt độ,...Bước đầu học sinh có thể gặp khó khăn nhưng thực hiện nhiều lần các em sẽ quen dần trong việc đặt điều kiện cho thí nghiệm để đảm bảo độ chính xác cao
Không nêu tên bài học trước khi học với những bài thể hiện nội dung bài học ở đề bài
Ví dụ (Hoạt động tuần hoàn, tuần 4 tiết 7, lớp 3)
Bước 2. Làm bộc lộ những hiểu biết ban đầu của HS
Bước 3:Đề xuất câu hỏi và phương án tìm tòi.
GV cho HS làm việc theo nhóm 4.
GV chốt lại các câu hỏi của các nhóm : Nhóm của câu hỏi phải phù hợp với nội dung bài học
Các em đã nghe thấy gì khi áp tại vào ngực của bạn mình ? thấy gì
Khi đặt mấy đầu ngón tay lên cổ tay mình hoặc tay bạn xem cảm
Bước 1: Đưa ra tình huống xuất phát
b. Gọi HS áp tai vào ngực của bạn mình và đếm số mạch tim đập trong một phút.
c. Đặt ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay phải lên cổ tay trái của mình đếm số nhịp
.a. Cách tiến hành: Hướng dẫn HS:
Bước 4: Thực hiện phương án tìm tòi - khám phá: GV hướng dẫn gợi ý HS đề xuất các phương án tìm tòi , khám phá để tìm các câu trả lời cho câu hỏi ở bước 3
Bước 5. Kết luận rút ra kiến thức: Các nhóm lần lượt trình bày kết luận sau khi thảo luận
Kết luận: Tim luôn đập để bơm máu đi khắp cơ thể. Nếu tim ngừng đập, máu sẽ không lưu thông được trong các mạch máu, cơ thể sẽ chết
PHƯƠNG PHÁP NÊU VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Khái niệm
là tổ chức quá trình dạy học bao gồm việc tạo ra tình huống có vấn đề (tình huống tìm tòi) trong giờ học, kích thích ở
HS nhu cầu giải quyết những vấn đề nảy sinh, lôi cuốn các em vào hoạt động nhận thức tự lực nhằm nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, phát triển tính tích cực trí tuệ và hình thành cho các em năng lực tự mình thông hiểu và lĩnh hội thông tin khoa học”
Đặc trưng cơ bản của dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là "tình huống gợi vấn đề" vì "Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề"
Tình huống có vấn đề (tình huống gợi vấn đề) là một tình huống gợi ra cho HS những khó khăn về lí luận hay thực hành mà họ thấy cần có khả năng vượt qua, nhưng không phải ngay tức khắc bằng một thuật giải, mà phải trải qua quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc điều chỉnh kiến thức sẵn có.
Đặc điểm
Quá trình thực hiện DH GQVĐ được chia thành những giai đoạ những bước có tính mục đích chuyên biệt
DH GQVĐ bao gồm nhiều hình thức tổ chức đa dạng, lôi cuốn HS tham gia
tích cực, chủ động, sáng tạo dưới sự chỉ đạo dẫn dắt, gợi mở của giáo viên (GV)
Chứa đựng tình huống có cấn đề liên quan đến nội dung học tập
Ưu/nhược điểm
Ưu điểm
Đây là phương pháp phát triển được khả năng tìm tòi, xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong khi phát hiện và giải quyết vấn đề, HS sẽ huy động được tri thức và khả năng cá nhân, khả năng hợp tác, trao đổi, thảo luận với bạn bè để tìm ra cách giải quyết vấn đề tốt nhất.
Thông qua việc giải quyết vấn đề, HS được lĩnh hội tri thức, kĩ năng và phương pháp nhận thức (“giải quyết vấn đề” không còn chỉ thuộc phạm trù phương pháp mà đã trở thành một mục đích dạy học, được cụ thể hóa thành một mục tiêu là phát triển năng lực giải quyết vấn đề, một năng lực có vị trí hàng đầu để con người thích ứng được với sự phát triển của xã hội)
Phương pháp này góp phần tích cực vào việc rèn luyện tư duy phê phán, tư duy sáng tạo cho HS. Trên cơ sở sử dụng vốn kiến thức và kinh nghiệm đã có HS sẽ xem xét, đánh giá, thấy được vấn đề cần giải quyết.
Hạn chế
hương pháp này đòi hỏi GV phải đầu tư nhiều thời gian và công sức, phải có năng lực sư phạm tốt mới suy nghĩ để tạo ra được nhiều tình huống gợi vấn đề và hướng dẫn tìm tòi để phát hiện và giải quyết vấn đề.
Việc tổ chức tiết học hoặc một phần của tiết học theo phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề đòi hỏi phải có nhiều thời gian hơn so với các phương pháp thông thường. Hơn nữa, theo Lecne: “Chỉ có một số tri thức và phương pháp hoạt động nhất định, được lựa chọn khéo léo và có cơ sở mới trở thành đối tượng của dạy học nêu vấn đề”.
Tác dụng
Rèn luyện cho HS năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự học, kĩ năng lập kế hoạch, kĩ năng tự tổ chức, tự kiểm tra, tự đánh giá hoạt động tự học của chính mình.
Giúp phát huy cao tính tích cực, tự giác, độc lập sáng tạo của HS. Thông qua DH GQVD người học được thể hiện vai trò trung tâm của mình trong hoạt động nhận thức.
Rèn luyện cho HS các thao tác tư duy logic. Bởi lẽ, để giải quyết vấn đề HS cần phải có sự quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa để rút ra kết luận.
Mức độ dạy học
Mức độ 1: (Đối tượng hs Yếu) GV đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. HS thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của gv. GV đánh giá kết quả làm việc của hs.
Mức độ 2: (Đối tượng học sinh TB) GV đặt vấn đề, gợi ý để HS tìm cách giải quyết vấn đề. HS thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của GV khi cần thiết. GV và HS cùng đánh giá.
Mức độ 3: (Đối tượng học sinh Khá) GV cung cấp thông tin, tạo tình huống gợi vấn đề. HS phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự lực đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. HS thực hiện cách giải quyết vấn đề. GV và HS cùng đánh giá.
Mức độ 4: (Đối tượng học sinh Giỏi) HS tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc của cộng đồng, lựa chọn vấn đề phải giải quyết. HS giải quyết vấn đề tự đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của GV khi cần thiết.
Qui trình dạy học giải quyết vấn đề
Bước 2: Đề xuất các giả thuyết để giải quyết vấn đề
HS huy động các kiến thức cần cho
việc giải quyết vấn đề.
HS sẽ liệt kê các kiến thức cần có để kiểm chứng, đồng thời xác định kiến thức mới cần có để GQVĐ.
Dưới sự hướng dẫn của GV, HS sẽ đưa ra ý tưởng và giả thuyết về vấn đề
Bước 3: Lập kế hoạch và thực hiện giải quyết vấn đề.
GV có thể chia nhóm, phân chia các nội dung cần nghiên cứu
Sau khi thu thập đủ thông tin, các nhóm có thể thảo luận, chia sẻ và hệ thống hóa kiến thức mới nhận được.
HS cần đề xuất các phương án GQVĐ. Các phương án giải quyết đã được tìm ra cần được phân tích, so sánh, phân tích xem có thích hợp và giải quyết được vấn đề đặt ra không.
Từng ý tưởng, giả thuyết sẽ được xem xét, kiểm
chứng về tính đúng đắn.
Nếu như khi kiểm chứng, không một giả thuyết nào đưa ra được chấp nhận thì cần phải quay trở lại vấn đề ban đầu đề xuất giả thuyết mới, rồi kiểm chứng lại.
Bước 1: Đặt vấn đề
GV giao nhiệm vụ nhận thức cho HS thông qua việc làm xuất
hiện tình huống có vấn đề
HS phân tích tình huống đặt ra để nhận biết được vấn
đề, sẵn sàng và mong muốn tham gia GQVĐ
Bước 4: Kết luận
HS thảo luận và đánh giá kết quả để đưa đến việc khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã nếu ra.
Từ đó, người học sẽ phát biểu kết luận cho vấn đề đặt ra và đề xuất vấn đề mới nếu có.
Kết quả của việc GQVĐ được thể hiện thông qua việc hiểu vấn đề và sự lí giải hợp lý cho vấn đề.
Ví dụ:Bài 46 – Khả năng kì diệu của lá cây, môn TN&XH 3
Bước 1. Đặt vấn đề.
GV đưa tình huống cho vấn đề: Chúng ta đều biết rằng hàng ngày rễ cây hút một lượng lớn nước vào thân cây. Cây dùng nước để quang hợp và sử dụng cho các hoạt động sống khác và chỉ giữa lại một phần rất nhỏ. Phần nước còn lại đã đi đâu?
Yêu cầu HS phân tích tình huống để nhận biết được vấn đề.
Học sinh đọc các kiến thức về chức năng của rễ cây đã được học: Rễ cây có chức năng hút nước và chất khoáng cho cây.Tìm hiểu thêm về chức năng của lá cây: Lá cây có chức năng quang hợp, hô hấp và thoát hơi nước.
Bước 2: Đề xuất các giải thuyết để
giải quyết vấn đề
Gv tổ chức cho cả lớp học đề xuất các giả thuyết cho vấn đề đặt ra
HS đề xuất các giải thuyết 1: Ở cây quá trình thoát
hơi nước diễn ra ở lá cây.
Bước 3: Lập kế hoạch và thực hiện
giải quyết vấn đề
GV chia lớp thành 4 nhóm. HS trong mỗi nhóm làm việc độc lập, sau đó nêu ý kiến thảo luận nhóm, thống nhất và đề xuất dụng cụ, cách tiến hành thí nghiệm.
Gv có thể định hướng cho các nhóm lựa chọn thí nghiệm và hỗ trợ HS trong quá trình tiến hành thí nghiệm.
GV lưu ý HS trong quá trình làm thí nghiệm đều dụng 2 cây tươi. Một cây cần cắt bỏ lá, 1 cây còn lá để chứng minh được vài trò của lá trong thí nghiệm.
GV có thể chia nhóm HS tiến hành thí nghiệm: Nhóm 1 và 2 làm thí nghiệm 1; Nhóm 3 và 4 làm thí nghiệm 2.
HS đề xuất dụng cụ và các bước tiến hành thí nghiệm
Thí nghiệm 1
Bước 1: Trồng hai cây tươi vào chậu: chậu A cắt bỏ lá, chậu B không cắt bỏ lá
Bước 2: Chùm túi ni lông vào cả hai cây
Bước 3: Để sau vài giờ và quan sát
Kết quả: thành túi ni lông ở chậu A vẫn trong. Thành túi ni lông ở chậu B mờ đi, không nhìn thất rõ lá, có những giọt nước li ti ở trong đó.
Giải thích: Do ở chậu B cây có lá nên có hiện tượng thoát hơi nước làm cho túi ni lông bị mờ đi , chậu A cây không còn lá nên không có hiện tượng này
Thí nghiệm 2
Bước 1: Lấy hai lọ thủy tinh A và B có mức nước bằng nhau trên phủ một lớp dầu. Lọ A có cây tươi có rễ, thân, lá. Lọ B có cây tươi có rễ, thân và không có lá
Bước 2: Đặt cả hai lọ lên bàn cân sao cho cân thăng bằng
Bước 3. Để sau 2 giờ và quan sát hiện tượng xảy ra. Kết quả: Sau 2 giờ, mực nước ở lọ A giảm xuống và mực nước ở lọ B giữ nguyên. Cán cân lệnh về phía có lọ B.
Giải thích: Do cây ở lọ A có hiện tượng thoát hơi nước qua lá và nước đó là do dễ hút lên. Làm cho nước trong lọ A giảm đi. Lọ B không có hiện tượng đó nên cân nghiêng về phía lọ B.
Bước 4: Kết luận
GV tổ chức cho HS thảo luận và yêu cầu các nhóm cử đại diện trình bày kết quả nghiên cứu của nhóm mình, học sinh các nhóm khác nêu thắc mắc
Đại diện nhóm 1 và 2: Thí nghiệm 1: đã chứng minh được ở cây có lá đã có hiện tượng thoát hơi nước, cây không có lá không có hiện tượng đó. Tuy nhiên chưa chứng minh được lượng nước thoát ra là do dễ hút lên.
Đại diện nhóm 3 và 4: Thí nghiệm 2. Chứng minh được nước do dễ hút lên đã được thoát ra ngoài qua lá cây
Kết luận: Từ hai thí nghiệm trên rút ra kết luận: Phần lớn nước do rễ hút lên sẽ được thải ra ngoài qua hiện tượng thoát hơi nước ở lá. Giải thuyết đưa ra là đúng