Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
1.4.3 Phân loại dựa trên nội dung nghiên cứu - Coggle Diagram
1.4.3 Phân loại dựa trên nội dung nghiên cứu
Mô hình lý thuyết tương tác biểu tượng (Symbolic interactionist approach)
Mô hình lý thuyết này
chịu ảnh hưởng sâu đậm lý thuyết hành động xã hội
của M.Weber.
Nhà xã hội học người Đức này nhấn mạnh
nhu cầu phải thấu hiểu hiện tượng xã hội từ quan điểm của những người trong cuộc.
Mô hình lý thuyết này quan tâm
nghiên cứu xem đời sống trong các nhóm xã hội chi phối thế nào nhận thức và ứng xử
của con người
Một quan điểm nghiên cứu khác của trường phái Chicago này là quan điểm
tương tác biểu tượng (symbolic interactionism)
, nghiên cứu xem
cơ cấu xã hội hiện nay được hình thành như thế nào
trong quá trình tác động hỗ tương của con người.
Mô hình lý thuyết này cho phép chúng ta
nhìn xã hội một cách cụ thể hơn
, không còn bị chi phối bởi những cơ cấu xã hội trừu tượng. Và xã hội là
một tổng hoà các mối tương tác xã hội của cá nhân.
Mô hình lý thuyết cơ cấu - chức năng (Structuro-functionalist approach)
Những người tiên phong trong mô hình lý thuyết này là
H.Spencer
và
É.Durkheim.
Durkheim cho rằng mỗi
yếu tố của xã hội giữ vai trò của một bộ phận trong việc giúp xã hội tồn tại,
ví như tôn giáo giúp cho việc hội nhập xã hội.
Mô hình lý thuyết cơ cấu - chức năng
do họ đề xướng
nghiên cứu xã hội vận hành như thế nào để thực hiện các chức năng cơ bản
trong đời sống con người.
Mô hình lý thuyết này
quan niệm xã hội là một hệ thống có nhiều bộ phận khác nhau,
chúng liên kết với nhau nhằm đưa đến cố kết xã hội và ổn định xã hội.
Mô hình lý thuyết này dựa trên hai tiền đề:
Trước hết, nó
giả định xã hội bao gồm những cơ cấu xã hội,
thường được định nghĩa như là những khuôn mẫu hành vi khá ổn định.
Thứ đến,
mỗi yếu tố của cơ cấu xã hội phải được hiểu dưới góc độ chức năng xã hội
, xét như là các kết quả của sự vận hành xã hội với tính cách là một toàn thể.
Ông bổ túc thêm, bất cứ một bộ phận nào của xã hội cũng
có hơn một chức năng và có những chức năng
dễ được nhận ra hơn những chức năng khác.
Ông phân biệt hai loại chức năng:
chức năng công khai (manifest) và chức năng tiềm ẩn (latent).
Chức năng công khai
là chức năng mà mọi thành viên trong xã hội đều biết, trong khi
chức năng tiềm ẩn
là những kết quả không được nhận biết, không ý thức được.
Merton cho rằng
không phải mọi yếu tố của kết cấu xã hội đều thực sự cần thiết
, mà đôi lúc nó
phản chức năng (dysfunctionnal),
nghĩa là nó có thể gây những kết quả bất lợi cho sự vận hành của xã hội.
Mô hình lý thuyết cơ cấu-chức năng
là một
mô hình lý thuyết lớn
trong xã hội học, nét nổi bật nhất của mô hình này cho ta
một cái nhìn về xã hội như là một toàn thể
trật tự, ổn định và dễ hiểu
Mô hình lý thuyết mâu thuẫn xã hội (social-conflict paradigm)
nhấn mạnh đến
vai trò của xung đột và quyền lực
trong việc
giải thích không chỉ chuyển biến xã hội mà cả tính liên kết của xã hội.
Mô hình lý thuyết này quan niệm rằng
xã hội là một hệ thống có những bất bình đẳng xã hội và xung đột,
chúng tạo nên những chuyển biến xã hội.
Trong khi mô hình cơ cấu-chức năng thừa nhận có những yếu tố phản chức năng cho toàn xã hội, thì mô hình mâu thuẫn nhấn mạnh rằng
có những yếu tố hữu ích cho một số người thì lại phản chức năng đối với một số người khác.
Trước bất kỳ vấn đề gì, mô hình lý thuyết mâu thuẫn thường đặt các câu hỏi như:
thành phần xã hội nào hưởng lợi, thành phần nào bị thiệt hại trước biện pháp, vấn đề trên.