Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Việt Nam thế kỉ XVI - XVIII - Coggle Diagram
Việt Nam thế kỉ XVI - XVIII
Chính trị
Đàng ngoài
mô phỏng bộ máy chính quyền thời Lê sơ
Chế độ tuyển dụng quan lại như thời Lê sơ
Luật pháp: Tiếp tục dùng Quốc triều hình luật
Quân đội:
Quân thường trực (Tam phủ), tuyển chủ yếu ở Thanh Hóa và 1 số huyện ở Nghệ An, còn gọi là ưu binh.
Ngoại binh được tuyển từ 4 trấn quanh kinh thành
Đối ngoại: Hòa hiếu với nhà Thanh ở Trung Quốc.
Đàng trong
lúc đầu chỉ là chính quyền ở địa phương
giữa thế kỉ XVII mới thành lập chính quyền ở trung ương, chưa hoàn chỉnh
Quân đội là quân thường trực, tuyển theo nghĩa vụ, trang bị vũ khí đầy đủ.
Giữa thế kỷ XVII, tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn quan lại ngoài nguồn từ dòng dõi, đề cử.
Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, thành lập chính quyền trung ương nhưng đến cuối thế kỉ XVIII, triều đình Đàng Trong vẫn chưa hoàn chỉnh.
Kinh tế
Thủ công nghiệp
Một số nghề mới xuất hiện : khắc, in bản gỗ, làm đường trắng, làm đồng hồ, tranh sơn mài.
Khai mỏ: một ngành quan trọng rất phát triển ở cả Đàng trong và Đàng ngoài
Nghề thủ công truyền thống tiếp tục phát triển đạt trình độ cao
Thương nghiệp
Nội thương
Làng buôn và các trung tâm buôn bán.
Buôn bán giữa các vùng, miền phát triển.
Chợ làng, chợ huyện mọc lên khắp nơi
Ngoại thương
Thuyền buôn các nước đến nước ta buôn bán ngày càng tấp nập.
Thương nhân nhiều nước đã tụ hội lập phố xá cửa hàng buôn bán lâu dài.
Nông nghiệp
Từ cuối thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI
Ruộng đất ngày càng tập trung trong tay địa chủ, quan lại.
Nhà nước không quan tâm đến sản xuất
Nội chiến giữa các thế lực phong kiến diễn ra liên tiếp.
Nửa sau thế kỉ XVII
Nhân dân hai Đàng đều tiến hành khai hoang, mở rộng diện tích canh tác.
Các giống lúa mới đưa vào sản xuất đem lại năng suất cao
Các loại cây: sắn, khoai, ngô, bông…và cây ăn quả đều phát triển.
Việc đắp đê, đào sông, làm thủy lợi được trú trọng.
Sự phát triển ở các đô thị
Đàng trong
Thăng Long với 36 phố phường trở thành đô thị lớn của cả nước.
Đàng ngoài
Những đô thị mới như: Hội An ( Quảng Nam ), Thanh Hà ( Phú Xuân, Huế) trở thành những nơi buôn bán sầm uất.
Xã hội
đời sống nhân dân đói khổ, lầm than
mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt
bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân.
Văn hóa
Giáo dục và Văn học
Giáo dục
->Đàng Ngoài : Giáo dục như thời Lê sơ nhưng sa sút dần về số lượng.
->Đàng Trong: 1646 chúa Nguyễn tổ chức khoa thi đầu tiên theo cách riêng. Nội dung Nho học sơ lược.
->Nhà Mạc : tổ chức đều đặn các kì thi Hương, thi Hội để chọn nhân tài.
->Thời Quang Trung : đưa chữ Nôm thành chữ viết chính thống.
Văn học
(2)Văn học chữ Nôm: nhiều nhà thơ nổi tiếng như : Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ…
(3)Văn học dân gian : ca dao, tục ngữ, truyện cười, truyện dân gian…cũng phát triển ở các vùng dân tộc ít người làm cho kho tàng văn học thêm đa dạng, phong phú.
(1)Văn học chữ Hán: mất dần vị thế trong thời Lê sơ.
(4)Áng thơ Nôm bất hủ : Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc.
Nghệ thuật và khoa học kĩ thuật
Nghệ thuật
2)Nghệ thuật điêu khắc: Tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay (chùa Bút Tháp-Bắc Ninh)
3)Nghệ thuật dân gian: Trên các vì kèo ở ngôi đình làng khắc những cảnh sinh hoạt thường ngày
1)Nghệ thuật kiến trúc: Chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên – Huế)
4)Nghệ thuật sân khấu: Làn điệu dân ca địa phương như quan họ, hát giặm, hò, vè, lí, si, lượn..
Khoa học kĩ thuật
3)Quân sự: Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ
4)Y học: Bộ sách y dược của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác
2)Địa lí: Tập bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư
5)Quốc phòng: Đúc súng đại bác kiểu phương Tây, đóng thuyền chiến, xây thành luỹ…
1)Sử học: Ô châu cận lục, Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục, Đại Việt sử kí tiền biên, Thiên Nam ngữ lục (chữ Nôm)…
Tôn giáo
Thế kỷ XVI – XVIII, Nho giáo từng bước bị suy thoái.
Phật giáo có điều kiện khôi phục lại.
Thế kỷ XVI – XVIII, đạo Thiên Chúa được du nhập vào nước ta và được truyền bá ngày càng rộng rãi.
Thế kỷ XVI, do nhu cầu của việc truyền đao chữ quốc ngữ ra đời, nhưng chưa được truyền bá rộng rãi.