Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Đất Nước - Coggle Diagram
Đất Nước
Nội dung
Phần 1. Những cảm nhận mới mẻ về đất nước
Định nghĩa Đất Nước
Về phương diện không gian địa lý
là không gian gần gũi, gắn bó với mỗi người
là nơi gắn với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày:
"Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm"
Là nơi gắn với kỉ niệm tình yêu đôi lứa:
"Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"
Đất nước bao gồm cả núi sông, rừng bể
đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
->những hình ảnh ca dao gợi không gian mênh mông
->niềm tự hào về đất nước trù phú, giàu đẹp, tài nguyên vô tận
là không sinh tồn, nơi phát sinh và phát triển của cộng đồng người Việt qua biết bao thế hệ
Từ quá khứ (Những ai đã khuất)
Hiện tại (Những ai bây giờ)
các thế hệ tương lai (Dặn dò con cháu chuyện mai sau)
Tất cả đều không quên cội nguồn:
"Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"
->Trong cái nhìn về không gian đất nước, Nguyễn Khoa Điềm nghiêng nhiều về các không gian đời thường, thân quen với mọi người
Về phương diện thời gian lịch sử
Đất Nước gắn liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết các vua Hùng dựng nước
->tác giả kể ra huyền thoại "Lạc Long Quân và Âu Cơ", truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ để khơi dạy niềm tự hào về bề dày lịch sử đất nước, về cội nguồn thiêng liêng của dân tộc
Quá trình hình thành đất nước
có trong câu chuyện cổ tích "ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể"->khắc sâu những hình ảnh về cuộc sống của cha ông quá khứ
có trong hình ảnh "miếng trầu bây giờ bà ăn"->gợi người đọc nhớ đến tục ăn trầu và truyện cổ tích "Trầu Cau"
gắn liền với lịch sử đấu tranh của dân tộc: truyền thuyết "Thánh Gióng"->cho biết sự vươn mình, đánh dấu về sức mạnh quật khởi của dân tộc trong sự nghiệp chiến đấu hi sinh bảo vệ bờ cõi
gắn vào phong tục tập quán quen thuộc (tóc mẹ thì bới sau đầu) và đạo lí tốt đẹp lâu đời của dân tộc-tình nghĩa thủy chung vợ chồng (Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn)
gắn với những vật dụng thân thuộc hàng ngày, gắn với quá trình lao động cần cù, lam lũ của con người
mỗi vật dụng đều có một cái tên riêng "cái kèo cái cột thành tên"->những cái tên có từ rất lâu, từ khi con người biết "dựng nhà, dựng cửa"
gắn với hạt gạo ta ăn hàng ngày, với nghề trồng lúa nước lâu đời. khi hạt gạo được sáng tạo nên bằng sự cần cù lam lũ của con người thì ngôn từ "xay, giã, giần, sàng" cũng xuất hiện
Mối quan hệ và trách nhiệm của mỗi cá nhân
Đất Nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong mỗi con người:
"Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước"
->Sự sống của mỗi cá nhân không phải chỉ là riêng của cá nhân, mà là của đất nước. Bởi mỗi người Việt Nam đều được thừa hưởng một phần vật chất và tinh thần của đất nước
Đất nước là sự hài hóa giữa nhiều mối quan hệ
cá nhân với cá nhân
"Khi hai đứa cầm tay nhau
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm"
cá nhân với cộng đồng
"Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn"
=>Đất nước được xây dựng trên cơ sở của tình yêu thương và tình đoàn kết của dân tộc
Lời nhắn nhủ của tác giả:
"Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải viết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời.."
Nghệ thuật
điệp ngữ "phải biết"
"máu xương", "gắn bó", "san sẻ", "hóa thân"
cách xưng hô thân mật "em ơi em"
giọng thơ ngọt ngào tha thiết như lời tâm sự, nhắn gửi chân thành dành cho thế hệ trẻ cũng như bản thân: Cần có trách nhiệm giữ gìn, xây đắp, làm cho đất nước sống mãi muôn đời
Phần 2. Tư tưởng "Đất Nước" của nhân dân
Nhân dân làm nên hình hài Đất Nước
Tác giả có cái nhìn khám phá và đậm chất nhân văn
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho
Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái"
->Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định,..., hòn Trống Mái ở Sầm Sơn->do "những người vợ nhớ chồng" hoặc những"cặp vợ chồng yêu nhau" mà "góp cho", "góp thêm", làm đẹp thêm, tô điểm cho Đất Nước
Tác giả ca ngợi vẻ đẹp cảu Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống
"Gót ngựa của ... Hùng Vương"->cái "gót ngựa của Thánh Gióng" đã "để lại" cho đất nước bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay
->"Chín mươi chín" núi con Voi đã quần tụ, chung sức chung lòng "góp mình dựng đất tổ Hùng Vương"
Đất Nước ta còn có những dòng sông thơ mộng:
"Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm"-> Rông f"nằm im" từ bao đời nay mà quê hương có "dòng sông xanh thẳm" cho nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa
->"nghèo" mà vẫn góp cho đất nước ta núi Bút non Nghiên, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt, văn hiến Việt Nam
ngắm núi Bút, non Nghiên, NKĐ nghĩ về người học trờ nghèo:
"Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên"
->Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có "con cóc, con gà quê hương cùng góp cho"
->Những tên làng, tên núi, tên sông như "Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm" do những con người vô danh, bình dị làm nên
Nhân dân làm nên lịch sử Đất Nước
->nhân dân Việt Nam từ thế hệ này đến thế hệ khác nối tiếp nhau trong lao động và đánh giặc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
->chọn nhân dân không tên tuổi kế tục nhau làm nên Đất Nước là nét mới mẻ độc đáo của NKĐ
Nhân dân làm nên văn hóa Đất Nước
nghệ thuật
đại từ "họ" đặt đầu câu + nhiều động từ "giữ, truyền, gánh"-> Chính nhân dân là người đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa tinh thần và vật chất
Từ "hạt lúa", ngọn lửa, tiếng nói đến cả "tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân".
Họ có công trong việc chống ngoại xâm, dẹp nội thù->Họ giữ yên bờ cõi và xây dựng cuộc sống hoà bình
Điểm hội tụ và cũng là cao điểm của cảm xúc trữ tình trong đoạn thơ:
"Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại"
Từ nền văn học dân gian, nhà thơ đã khám phá ra những vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của dân tộc
Họ là những con người yêu say đắm và thuỷ chung: “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”
Quý trọng nghĩa tình (Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội)
Kiên gan, bền chí trong công cuộc bảo vệ đất nước (Biết trồng tre đợi ngày thành gậy - Đi trả thù mà không sợ dài lâu)
Kết thúc đoạn thơ là hình ảnh dòng sông với những điệu hò:
"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi "
->như muốn kéo dài thêm giai điệu ngân nga với nhiều cung bậc của bản trường ca về Đất Nước
Tác giả, tác phẩm
Tác giả
Nguyên Khoa Điềm
Cuộc đời
Sinh 1943, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế
Xuất thân: tron gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng
1964: tốt nghiệp Khoa Văn, trường Đại học sư phạm Hà Nội->trở về miền Nam tham gia chiến đấu và hoạt động văn nghệ đến 1975.
Hiện nay: nghỉ hưu ở Huế, tiếp tục làm thơ.
Là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ trong những năm chống Mĩ.
Phong cách: Giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính luận
Tác phẩm
Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1971, ở giữa chiến khu Trị - Thiên, hướng về tuổi trẻ Việt Nam trong những ngày sục sôi đánh Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm viết "Mặt đường khát vọng"