Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Đông Nam Á và ASEAN - Coggle Diagram
Đông Nam Á và ASEAN
ASEAN (1967-nay)
Hoàn cảnh ra đời
Trong bối cảnh khu vực và thế giới,
đang quốc tế hóa cao độ (tức xu hướng liên kết hợp tác (VD: EEC)
Tránh sự ảnh hưởng, đụng độ của các cường quốc bên ngoài đang tìm mọi cách biến ĐNÁ thành sân sau của họ
(Mĩ can thiệp vào 3 nước Đông Dương)
Sau khi giành được độc lập, các nước ĐNÁ
nhận thậy sự cần thiết cần phải hợp tác với nhau để cùng phát triển
Mục đích:
nhằm cùng nhau hợp tác phát triển về kinh tế, văn hóa, thông qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các nước thành viên trên tinh thần duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực,
(thể hiện ở tuyên bố Bangkok (1967), Kuala Lampur (1971) và Bali (1976) )
Nguyên tắc hoạt động
Các nước thành viên tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
Không can thiêp vào công việc nội bộ của nhau
Giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình
Hợp tác, phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội
Sự phát triển của ASEAN
Sự gia nhập của các nước ASEAN
1984, Brunei gia nhập ASEAN (6)
28/7/1995 - Việt Nam gia nhập (7)
1997, Lào và Myanmar (8 và 9)
30/4/1999, Campuchia (10)
Năm 1967, Indonesia, Phillippines, Thái Lan, Malaysia, Singapore thành lập ra ASEAN (1,2,3,4,5)
Chương trình hợp tác kinh tế của ASEAN
Mục đích: xây dựng một khu vực ĐNÁ hòa bình, ổn định để cùng nhau phát triển phồn vinh
Biểu hiện
1992, thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
1994, thành lập Diễn đàn khu vực (ARF)
Ngày nay, ASEAN chuyển trọng tâm hoạt động sang hợp tác kinh tế, biến ĐNÁ thành một khu vực mậu dịch tự do, tạo một môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển của khu vực
Đặc điểm của quá trình phát triển
Giai đoạn 1: 1967-76: ASEAN là một tổ chức non yếu, hoạt động lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế
Giai đoạn 2: 1976-nay: Hoạt động tương đối hiệu quả, tác động tích cực cho các nước thành viên
Cơ cấu hoạt động (Mở rộng)
Trụ sở chính là ở Jakarta, Indonesia
Hội nghị thượng đỉnh gồm những người đứng đầu chính phủ ASEAN, định kì 3 năm/họp
Cơ quan lãnh đạo ASEAN: Hội nghị Ngoại trưởng hàng năm của các thành viên
Người điều hành là tổng thư kí ASEAN (nhiệm kì tùy)
Hàng năm các nước được làm chủ tịch ASEAN trong vòng 1 năm
Vai trò của VN đối với ASEAN
2003, lần đầu tiên đăng cai tổ chức SEA Games,
2010, lần đầu tiên VN giữ vai trò chủ tịch ASEAN, đạt thành tựu cao
2020, lần thứ 2 VN giữ vai trò chủ tịch của ASEAN
Cơ hội và thách thức của VN khi gia nhập
Cơ hội
Tạo cơ hội cho VN giao lưu, trao đổi giữa các nước trong khu vực về phát triển kinh tế, mở rộng thị trường
Tiếp nhận và chuyển giao KH-KT của các nước bạn, thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Hợp tác giao lưu văn hóa - giáo dục, góp phần nâng cao, củng cố vị thế VN trên trường quốc tế
Thách thức
Sự chênh lệch về trình độ phát triển
, sự cạnh tranh quyết liệt về thị trường, về nguồn nhân lực, nếu không nắm bắt được thời cơ chuyển giao công nghệ thì sẽ bị tụt hậu, đặc biệt và về nhân lực
Vấn đề về
bảo vệ bản sắc văn hóa - dân tộc
khi mở cửa hội nhập, hòa nhập nhưng không được hòa tan
Vẫn còn
những tranh chấp ở trên Biển Đông
Những biến đổi lớn của ĐNA Sau CTTGII
Sau khi giành độc lập, các nước ĐNA
ra sức xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đạt nhiều thành tựu to lớn, đời sống vật chất và tinh thần nâng cao
(VD: Singapore, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam)
Các nước ĐNÁ
chuyển từ "đối đầu" sang "đối thoại" và hội nhập.
Các nước ĐNÁ đều tham giá tổ chức ASEAN (Hiệp hội các nước ĐNÁ). Các nước ASEAN thúc đẩy sự hợp tác, phát triển kinh tế - văn hóa ở khu vực nhằm xây dựng một ĐNÁ vững mạnh, tự lực, tự cường
Sau chiến tranh TGII,
phong trào GPDT ở ĐNÁ diễn ra mạnh mẽ, hầu hết các nước giành được độc lập và xây dựng đất nước theo những mô hình kinh tế, xã hội khác nhau
: (Điển hình đó lá Indonesia, VN, Lào giành độc lập đầu tiên). Một số nước phải cầm súng chống lại sự trở lại của chủ nghĩa thực dân và chủ trương "chiến lược toàn cầu" do Hoa Kì lãnh đạo
Trong 3 biến đổi trên, biến đổi thứ nhất là quan trọng nhất vì: các nước giành độc lập dân tộc làm thay đổi số phận và cuộc sống của người dân Đông Nam Á, mở ra một kỉ nguyên mới: độc lập, tự do; tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước; góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và mới, làm thay đổi bản đồ chính trị thế giới