Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Các tiêu chí đánh giá chương trình GDMN - Coggle Diagram
Các tiêu chí đánh giá chương trình GDMN
Tính trình tự (sequence)
thứ tự của nội dung chương trình, được
thể hiện ở thứ tự các nội dung từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp...
Trình tự thể hiện ở tính cấu trúc, logic hình thức của chương trình
Thí dụ: chương trình giáo dục mầm non được cấu trúc theo trình tự như sau: - Phát triển thể chất. - Phát triển nhận thức. - Phát triển ngôn ngữ. - Phát triển xúc cảm thẩm mỹ. - Phát triển tình cảm xã hội.
Tính cố kết (coherent)
Tính gắn kết có thể thể hiện qua tính trình tự nên nó cũng liên quan
đến tính trình tự
tính cố kết thể hiện ở việc các khối kiến thức trong chương trình liên quan gắn chặt với nhau và luôn được củng cố lại khi tiếp nhận kiến thức sau
Tính cố kết thể hiện sự tiếp nối, kế thừa của các
khối kiến thức
Ví dụ, các nội dung phát triển mặt nhận thức cho trẻ không thể không gắn chặt với ngôn ngữ. Ngôn ngữ vừa là cái vỏ chứa đựng nội dung nhận thức, vừa là phương tiện để trẻ lĩnh hội kiến thức và biểu đạt thế giới bên trong của mình. Cho nên tình cảm thẩm mỹ hay đạo đức được hình thành trên cơ sở của những rung cảm và ngôn ngữ là một trong những yếu tố giúp chuyển hoá rung cảm này thành tình cảm.
Tính phù hợp (relevant)
Tính phù hợp được nhìn dưới nhiều góc độ. Đầu tiên, tính phù hợp của chương trình được xem xét trên cơ sở mục tiêu giáo dục. Tính trình tự và gắn kết có thể đảm bảo nhưng không phù hợp với mục tiêu giáo dục thì 45 chương trình đó cũng không có ý nghĩa
Tri thức của nhân loại là vô tận, vậy chương trình chỉ xây dựng trên cơ sở của các khối kiến thức liên quan, phù hợp với mục tiêu giáo dục.
Ví dụ: Khi đánh giá chương trình mầm non cần phụ thuộc vào mức độ của trẻ để đánh giá xem mức độ nhận thức, kĩ năng trẻ đạt được là gì
Tính cân đối (balanced)
Tính cân đối được xem là một tiêu chí quan trọng để xác định tỷ lệ các khối kiến thức và kỹ năng, giữa dạy học và giáo dục, giữa sự phát triển nhận thức và tình cảm, giữa hoạt động tĩnh và động, giữa phát triển thể chất và phát triển trí tuệ…
Muốn xác định tính cân đối của chương trình người ta có thể xem bảng phân phối chương trình và kế hoạch triển khai cho mỗi nội dung. Tỉ lệ thời gian thực hiện là thước đo khách quan, bởi vì về hình thức, nội dung có thể cân đối nhưng trên thực tế lại thiếu cân đối do tỉ lệ thời gian thiên lệch nhiều hơn về một mặt nào đó
Ví dụ: Giáo viên cần sắp xếp cân đối các kiến thức mà trẻ đạt được so với độ tuổi trẻ. Trong độ tuổi 5
tuổi trẻ nhận biết trong phạm vi 10
Tính cập nhật (current)
Tính cập nhật là một trong những tiêu chí quan trọng trong đánh giá chương trình và liên quan chặt chẽ đến tính phù hợp. Thực tế luôn thay đổi và sinh động.
Chính vì vậy, chương trình luôn được rà soát và điều chỉnh hàng năm để luôn cập nhật và đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Ví dụ: Khi có một chương tình mới, ví dụ chương trình giáo dục Mầm non lấy trẻ làm trung tâm, giáo viên cần tham gia, cập nhập kịp thời
Tính hiệu quả (effectiveness)
Tính hiệu quả là tiêu chí quan trọng nhất của chương trình. Một chương trình hiệu quả là chương trình có thể mang lại cho người học năng 46 lực hành động, là chương trình có thể chuyển hóa tri thức thành năng lực thực tiễn
Chương trình có thể hữu ích nhưng người thực hiện chương trình có thể làm cho nó không như kỳ vọng. Chính vì vậy giáo viên là người quyết định thành bại của mọi chương trình giáo dục.
Ví dụ: Khi giáo viên giảng tiết khám phá khoa học khám phá về các loại quả, sau tiết đó trer có phân biệt và gọi tên đúng các loại quả hay không.=> Đánh giá hiệu quả là giáo viên