Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Khôi phục KT, bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh cuộc chiến đấu GP miền Nam, thống…
Khôi phục KT, bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh cuộc chiến đấu GP miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1969-1975)
Hoàn cảnh trong nước
Từ tháng 11-1968, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc thực hiện các kế hoạch ngắn hạn nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục cuộc xây dựng miền Bắc và tăng cường lực lượng cho miền Nam.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, hướng thọ 79 tuổi.
Ngày 23-9-1969, Quốc hội khóa III tại kỳ hợp đặc biệt đã bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà, đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Phó chủ tịch Nước.
Nhân dân miền Bắc đã khẩn trương bắt tay khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
sau ba năm phấn đấu gian khổ, từ năm 1969 đến năm 1972, tỉnh hình khôi phục kinh tế và tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội có nhiều chuyển biển tốt đẹp trên nhiều mặt.
Trong nông nghiệp năm 1969 diện tích các loại cây trồng đều vượt năm 1968, riêng diện tích và sản lượng lúa tăng khá nhanh, lúa xuân tăng hai lần so với năm 1968, chăn nuôi cũng phát triển mạnh.
Trong công nghiệp, hầu hết các xí nghiệp bị dịch đánh phá được khôi phục, sửa chữa.
Hệ thống giao thông, cầu phà, bến bãi được khẩn trương khôi phục và xây dựng thêm.
Trong lĩnh vực giáo dục, y tế có bước phát triển tốt so với trước, nhất là hệ thống giáo dục đại học, tăng lên 36 trường và phân hiệu với hơn 8 vạn sinh viên.
Những kết quả đạt được đã làm cho tiềm lực mọi mặt của hậu phương lớn miền Bắc được tăng cường, cải thiện đời sống nhân dân, hồi sinh một bước cuộc sống bình thường, cho phép miền Bắc chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến ngày càng cao, gia phần quyết định tạo nên chiến thắng to lớn trên chiến trường miền Nam,
Đặc biệt là cuộc chiến đấu oanh liệt của Quân giải phong ở Thành cổ Quảng Trị trong suốt 81 ngày đêm từ ngày 28- 6 đến ngày 16-9-1972
MIỀN BẮC
Trước hành động chiến tranh điên cuồng của địch, Trung ương Đảng đã phát động quân dân miền Bắc nhanh chóng phát triển cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại đến đỉnh cao, kiên quyết bảo về miền Bắc, tiếp tục chi viện miền Nam, giữ vững lập trường đàm phán.
Trong 9 tháng chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, quân dân miền Bắc đã bình tĩnh, sáng tạo vừa sản xuất vừa chiến đấu,
trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không", đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ
trong 12 ngày đêm (từ 18 đến 30-12-1972) đánh trả cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội và Hải Phòng, quân và dân miền Bắc đã bắn tới 84 máy bay, trong đó có 3 máy bay B52 và 5 máy bay F.111A (cánh cụp, cảnh xoè), bắt sống 43 giặc lái.
Ngày 15-1-1973, Chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động phá hoại miền Bắc và trở lại bản đàm phán ở Paris
Từ tháng 4-1972, để ngăn chặn cuộc tiến công chiến lược của quân dân ta ở miền Nam, để quốc Mỹ đã cho máy bay, tàu chiến tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai hết sức ác liệt, nhất là cuộc rải thảm bom băng pháo đài bay B.52 trong 12 ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác.
Sau ngày Hiệp định Paris được ký kết, miền Bắc có hòa bình
Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch hai năm khôi phục và phát triển kinh tế 1974-1975.
Hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ và nhân viên chuyên môn kỹ thuật cũng hãng hải vào Nam làm nhiệm vụ chống Mỹ
Đến năm 1975, hầu hết các cơ sở kinh tế đã trở lại hoạt động bình thường.
Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp trên một số mặt quan trọng đã đạt và vượt mức năm 1965.
Sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế tiếp tục phát triển với tốc độ cao.
Với tiềm lực kinh tế và quốc phòng được xây dựng, cùng với việc tiếp thu và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế, miền Bắc chẳng những đứng vững trong chiến tranh, mà còn đánh thắng oanh liệt hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng kỹ thuật và phương tiện hiện đại nhất của đế quốc Mỹ
quân dân miền Bắc đã bắn rơi 4.181 máy bay trong đó có nhiều B.52, bắn cháy 271 tàu chiến của Mỹ, bắt và tiêu diệt hàng ngàn giặc lái Mỹ.
Miền Bắc còn hoàn thành nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam và hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia.
Tinh tổng thể, hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã bảo đảm 80% bộ đội chủ lực, 70% vũ khí và lương thực, 65% thực phẩm cho chiến trường miền Nam, nhất là ở giai đoạn cuối.
MIỀN NAM
từ đầu năm 1969, Tổng thống Mỹ Richard Nixon (R.Nichxon) đã để ra chiến lược toàn cầu mới mang tên “Học thuyết Nichxơn”
R. Nichxơn chủ trương thay chiến lược “chiến tranh cục bộ” bằng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh" một chính sách rất thâm độc nhằm “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam" để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ ở miền Nam.
Mỹ đã áp dụng một loạt biện pháp như: ra sức củng cố chính quyền, xây dựng ngụy quân động và hiện đại; ráo riết thực hiện chương trình bình định; tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm chặn đứng sự chi viện cho miền Nam
Tìm mọi cách thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoã với Liên Xô hòng cát giảm nguồn viện trợ chủ yếu của Việt Nam.
Trong hai năm 1969- 1970, sự phản kích ác liệt của Mỹ-ngụy trong các chiến dịch bình định cấp tốc, xây dựng lại cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa thực dân mới ở nông thôn đã gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất
Trước âm mưu, thủ đoạn chiến tranh xảo quyệt của địch, Đảng ta đã đề ra quyết tâm và chủ trương, chiến lược hai bước, thể hiện trong Thư chúc mừng năm mới (1-1-1969) của Hồ Chí Minh: “Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (6-1970) và Hội nghị Bộ Chính trị (6-1970) đã đề ra chủ trương mới nhằm chống lại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh".
Trong những năm 1970-1971, cách mạng miền Nam từng bước vượt qua khó khăn gian khổ, kiên trì xây dựng và phát triển lực lượng, tiến công dịch trên cả ba vùng chiến lược, gây tổn thất to lớn cho dịch trong “Việt Nam hóa chiến tranh và “Đông Dương hóa chiến tranh"
Thực hiện chủ trương của lãnh đạo Đảng hai nước, liên quân Lào-Việt Nam đã phối hợp mở chiến dịch phản công quy mô lớn, đánh bại cuộc hành quân của địch, bảo vệ căn cứ địa chủ yếu của Lào, phá thế uy hiếp sườn phía Tây miền Bắc nước ta và tuyến vận tải Tây Trường Sơn.
Năm 1971, quân và dân Việt Nam phối hợp với quân và dân Lào chủ động đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn “Lam Sơn 719" của Mỹ-ngụy
Những thắng lợi quân sự nói trên, cùng với những thắng lợi của nhân dân miền Nam trong việc đánh phá kế hoạch “bình định” của địch đã mở ra khả năng thực tế đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Quân ngụy Sài Gòn, cái “xương sống” của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh" đã bị suy yếu nghiêm trọng.
Vào mùa Xuân-Hè năm 1972, nhằm giành thắng lợi quyết định trong năm bầu cử tổng thống Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng ở thể thua, quân ta đã mở cuộc tiến công chiến lược với quy mô lớn, cường độ mạnh.
Cuộc đấu tranh ngoại giao trên bàn Hội nghị Paris đã kéo dài 4 năm 8 tháng 14 ngày, với 202 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao giữ cố vấn Lê Đức Thọ với có vấn H. Kissinggers, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và kết thúc vào ngày 27-1-1973 với việc ký kết “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hóa bình ở Việt Nam"
MIỀN NAM
Mặc dù phải ký Hiệp định Paris, chấp nhận rút quân khỏi Việt Nam, nhưng để quốc Mỹ vẫn ngoan cố, không chịu từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam, mà âm mưu tiếp tục tiến hành chiến tranh để áp đặt chủ nghĩn thực dân mới và chia cắt lâu dài đất nước ta.
Theo âm mưu đó, ngay sau khi Hiệp định Paris được ký kết, dưới sự chỉ đạo của Mỹ, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã ngang ngược phá hoại hiệp định, liên tiếp mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta.
tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã nêu rõ con đường cách mạng của nhân dân miền Nam là con đường bạo lực cách mạng và nhấn mạnh: bất kể trong tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, từ cuối năm 1973 và cả năm 1974, quân và dân ta ở miền Nam đã liên tiếp giành được thắng lợi to lớn trên khắp các chiến trưởng,
Hội nghị Bộ Chính trị họp đợt 1 (từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974) và đợt 2 (từ ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975) đã bản về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Bộ Chính trị đề ra quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam với kế hoạch hai năm 1975-1976
Bộ chính trị Trung ương Đảng do bí thư thứ nhất Lê Duẩn lãnh đạo và Quân uỷ Trung ương , Bộ Tổng tư lệnh đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những quyết sách chiến lược kịp thời đúng đắn
Cuộc tổng tiền công và nổi dậy đã diễn ra trong 55 ngày đêm từ ngày 10-3 đến ngày 30.4.1975 Vào 11 giờ 30 phút, ngày 30-4-1975, là cử cách mạng được cắm trên nóc Dinh Độc Lập. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đã toàn thông, đánh dấu kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc.