Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Quá trình hình thành và phát triển của văn học thiếu nhi - Coggle Diagram
Quá trình hình thành và phát triển của văn học thiếu nhi
Thời kì trước Cách mạng tháng Tám 1945
Văn học thiếu nhi Việt Nam thực sự được hình thành và phát triển với tư cách là một bộ phận của văn học Việt Nam từ khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhưng sự chuẩn bị thì đã có từ trước đó
Một số tác phẩm văn học như thơ ngụ ngôn La Phông-ten (Jean de Lontaine), truyện ngắn Perôn (Charles Perault) Đã được dịch sang tiếng Việt
Ngoài ra, người ta còn xuất bản loại sách "Livre du petit" (sách cho trẻ em bằng tiếng Pháp) để rèn luyện tiếng Pháp cho các em. Tản Đà có Lên sáu, Lên tám viết cho lứa tuổi nhi đồng và được dùng làm sách giáo khoa
Thời kì miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam kháng chiến chống Mĩ (1955-1964)
17/6/1957 xuất bản Kim Đồng được thành lập
Đất rừng phương Nam (1957) của Đoàn Giỏi, hai làng tà Pình và Động Hóa (1958) của Bắc thôn, Em bé bên bờ sông Lai (1958) của Vũ Cao, Cải Thăng (1961) của Võ Quảng, Vừ A Dính (1963) của Tô Hoài
Đội ngũ sáng tác cho các em đã được hình thành và ngày càng được bổ sung thêm, do đó, số lượng tác phẩm cũng như đề tài phản ánh ngày càng phong phú, đa dạng
Đề tài lịch sử
Lá cờ thêu sáu chữ vàng và Kể chuyện Quang Trung của Nguyễn Huy Tưởng; Sóng gió Bạch Đằng và Bố cái đại vương của An Cương; Nhụy Kiều tướng quân của Yến Hồng, Hoài Ban Chọn soái của Quách Thọ; Tướng quân Nguyễn Chích và Quận He khởi nghĩa của Hà An...
Đề tài sinh hoạt, lao động, học tập hàng ngày
Đàn chim gáy của Tô Hoài; Nơi xa của Văn Linh; Tổ tâm giao của Trần Thanh Địch; Ngày công đầu tiên của cu Tí của Bùi Hiển; Bí mật miếu Ba Cô của Văn Trọng; Những mẫu chuyện về bé Ly của Bùi Minh Quốc…
Truyện đồng thoại
Cái tết của Mèo con của Nguyễn Đinh Thi; Chủ đất nung của Nguyễn Kiên; Bê và sáo của Phạm Hổ ...
Thơ
Tập thơ tiêu biểu như: Thấy cái hoa nở (Võ Quảng); Những người bạn nhỏ (Phạm Hổ)...
Thời kì kháng chiến chống Pháp (1945-1954)
Đây là giai đoạn đánh dấu sự ra đời cùng những thành tựu đầu tiên của văn học cho trẻ em dưới chế độ mới
Tờ thiếu Sinh-tiền thân của báo Thiếu niên tiền phong Đã ra số đầu tiên năm 1946
12/1946 báo Thiếu sinh đã ra số đặc biệt với chủ đề: các em viết, các em vẽ
Những bài thơ của bác như hai cháu liên lạc trong bộ đội chiến khu II (1947), thư trung thu (1952), Gửi các cháu nhi đồng nhân dịp tết trung thu (1953)... đã thể hiện rõ tính mục đích và phương châm của sáng tác văn học thiếu nhi lúc bấy giờ
Bên cạnh tờ Thiếu sinh còn có tờ Thiếu niên, Tuổi trẻ, Xung phong, Măng non và các sách Kim Đồng, Hoa khủng chiến
Đây là trận đường mở đầu cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam
Chúng tỏ nền văn học viết cho các em rất có cơ sở và điều kiện để phát triển trong tương lai
Thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ (1965-1975)
Văn học thiếu nhi ở giai đoạn này phát triển mạnh, có nhiều cây bút tài năng, nhiều tác phẩm có giá trị và thực sự là một lực lượng lớn góp phần biểu dương, khích lệ những tấm gương sáng trong học tập và chiến đấu
Hai bàn tay chiến sĩ (Tuyển tập chọn lọc về đề tài kháng chiến chống Pháp); Dòng nước xiết (Tập truyện ngắn và ký về để tài miền Bắc chống Mỹ); Măng tre (Tuyển tập thơ của Võ Quảng, 1971)
Đề tài
Đề tài kháng chiến chống Pháp
Đội du kích thiếu niên Đình Bảng của Xuân Sách; Quê nội của Võ Quảng; Kim Đồng của Tô Hoài...
Đề tài chống Mĩ
Các tác phẩm viết về đề tài này thường miêu tả cuộc sống chiến đấu của trẻ em trong vùng tạm chiếm
Những đứa con trong gia đình; Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thị, Hồ Văn Mên của Lâm Phương (1969), Chú bé Cả Xên của Minh Khoa (1963), Đoàn Văn Luyện của Phạm Hổ, t Tám của Ngô Thông, Em bé sống Yên (viết về liệt sĩ Nguyễn Bá Ngọc) của Vũ Cận
Đề tài lịch sử
Sát thát (Lê Vân, Nguyễn Bích, 1971); Bên bờ Thiên Mạc (1967); Trên sông truyền ịch (1973); Trăng nước Chương Dương (1975) của Hà Ấn...
Đề tài về cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động của trẻ em trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa
Chú bé sợ toán (1965) của Hải Hồ; Mái trường thân yêu của Lê Khắc Hoan; Năm thứ nhất (1965) của Mình Giang; Những tia nắng đầu tiên (1971) của Lê Phương Liên; Hoa cỏ đẳng của Nguyễn Thị Như Trang; Tập đoàn san hô của Phan Thị Thanh Tú; Trận chung kết (1975) của Khánh Hoà...
Viết về cuộc sống mới khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất
Tình thương (Phạm Hồ), Bến tàu trong thành phố (Xuân Quỳnh). Chú bé có tài mở khoa (Nguyễn Quang Thân), Hành trình ngày thơ ấu (Dương Thu Hương)..
Tóm lại: Trong khoảng mười năm sau cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc, văn học nói chung, VHTN nói riêng dạng trong giai đoạn trăn trở, tìm tòi.
Đầu những năm 90
đội ngũ sáng tác cho các em được bổ sung thêm nhiều cây bút trẻ như Trần Thiên Hương, Lê Cảnh Nhạc, Nguyễn Nhật ảnh. Hà Lâm Kì, Quách Liêu... (về truyện) và Phùng Ngọc Hùng, Nguyễn Hoàng Sơn. Dương Thuấn, Mai Văn Hai... (vể thơ).
sáng tác cho các em
:
ở thời kì này đã có sự mở rộng để tài cũng như hướng tiếp cận đời sống và khả năng khám phá con người
Đề tài truyền thống (lịch sử, chiến tranh và cách mạng)
Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, Nhà Chữ của Tô Hoài...
Đề tài miền núi
Chú bé thổi khèn (Quách Liêu); Kỷ vật cuối cùng (Hà Lâm Kỳ); Một lớp trưởng khác thường (Lương Tố Nga); Chân trời mở rộng (Đoàn Lư), Đường về với Mẹ Chữ (Vi Hồng), Truyền thuyết trong mây (Đào Hữu Phương), Đổi sói hú (Nguyễn Quỳnh)...
thể loại tự truyện cũng phát triển mạnh
Cỏ dại của Tô Hoài, Sống nhờ của Mạnh Phú Tư, Chân trời cũ của Hồ Dzếnh
Đặc biệt, giai đoạn này xuất hiện những tác phẩm viết cho lứa tuổi mới lớn với những biểu hiện tâm lý phức tạp, đặt các em trong những mối tương quan với hoàn cảnh, với cuộc sống buộc phải tự lựa chọn và giải quyết