Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
ĐẶC ĐIỂM TÂM – SINH LÝ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC - Coggle Diagram
ĐẶC ĐIỂM TÂM – SINH LÝ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
Đặc điểm tâm lý
Học sinh tiểu học lứa tuổi từ 6 -11 tuổi, có những biến đổi quan trọng trong cuộc sống, lao động, học tập,...->đặc điểm tâm lí thể hiện qua các hoạt động về nhận thức, tình cảm, cảm xúc có những thay đổi cơ bản.
Học tập đã trở thành một hoạt động chủ đạo
Học sinh tiểu học ở các lớp đầu cấp có khuynh hướng ghi nhớ một cách máy móc, chưa có khả năng phân tích tự giác
Học sinh tiểu học các lớp 3, lớp 4 bước đầu đã biết tìm các dấu hiệu đăc trưng cho sự vật, biết phân biệt các đặc điểm của các chi tiết, các phần kỹ thuật động tác, song còn đơn giản.
Ở các lớp cuối cấp (lớp 4, lớp 5), việc ghi nhớ được hình thành và phát triển
Các em 5-6 tuổi bắt đầu hình thành trí nhớ và sự chú ý có ý thức, tức là bắt đầu biết tập trung sự chú ý vào một hoạt động cụ thể, nhưng không biết thực hiện đồng thời, nhanh và chính xác các hoạt động
Trong giảng dạy Thể dục, thể thao, tư duy của các em còn mang tính chất hình ảnh cụ thể nên các em tiếp thu dễ dàng và nhanh chóng hơn đối với các khái niệm có kèm theo minh hoạ (hình ảnh trực quan)-> giáo viên cần phải làm mẫu động tác và sử dụng rộng rãi các hình thức trực quan khác.
Các thủ thuật về phương pháp cần áp dụng trong giảng dạy Thể dục, thể thao cho học sinh tiểu học là: - Mô tả chính xác động tác bằng lời nói. - Làm mẫu động tác chính xác, đẹp, có sức lôi cuốn. - Tích cực vận dụng phương pháp trò chơi trong tập luyện.
Đặc điểm sinh lý lứa tuổi Tiểu học
a) Đặc điểm hệ cơ - xương
Hệ cơ: Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, cơ của các em có chứa nhiều nước, tỉ lệ các chất đạm, mỡ còn ít nên khi hoạt động chóng mệt mỏi.
Sức mạnh cơ ở lứa tuổi này còn rất hạn chế, giới hạn sinh lí về khả năng chịu đựng mà các em có thể mang vác được tính theo lứa tuổi
Lực cơ của học sinh tiểu học được tăng dần theo lứa tuổi. Với các học sinh nam 7 tuổi thì lực cơ trung bình là: 11,3 – 13,9kg
Hệ xương
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tốc độ phát triển của xương nhanh hơn so với các bộ phận khác của cơ thể, đặc biệt là xương ở tay và chân.
Cấu trúc xương và khớp chưa được phát triển hoàn chỉnh, phải đến tuổi 16- 17 mới tương đối ổn định -> Vì vậy, trong tập luyện thể dục, thể thao cũng như trong sinh hoạt, lao động… cần tránh các động tác đè nén lên cơ thể, đòi hỏi học sinh phải chống đỡ,......
b) Đặc điểm hệ tuần hoàn
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, nhịp tim nhanh (mạch đập thông thường là: 85 - 90 lần/phút). Khi hoạt động vận động hoặc có trạng thái lo lắng…thì nhịp tim đập nhanh hơn, dồn dập hơn.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, nếu các em phải chịu hoạt động lao động, học tập, tập luyện thể dục, thể thao hoặc vui chơi quá sức kéo dài, dẫn đến tim phải làm việc quá tải sẽ phát sinh bệnh tim – mạch hoặc các bệnh khác.
c) Đặc điểm hệ hô hấp
Hệ hô hấp đang thời kì hoàn thiện, các em đang dần dần tạo nên thói quen chuyển từ thở kiểu bụng sang thở kiểu ngực, lồng ngực phát triển chưa hoàn thiện
Độ giãn nở của các phế nang (túi phổi) -> Nhịp thở nông.Số lượng phế nang tham gia hô hấp còn ít -> lượng oxi được đưa vào máu cao.
Lượng không khí chứa trong phổi còn thấp -> phổi của các em phải làm việc khẩn trương mới cung cấp đủ oxi cho cơ thể
Tần số hô hấp tương đối cao -> khi hoạt động vận động với lượng vận động vừa phải thì nhịp thở đã tăng lên cao, các em dễ mệt mỏi sớm chuyển sang thở gấp, đòi hỏi phải có thời gian nghỉ ngơi phù hợp với lứa tuổi các em
d) Đặc điểm hệ thần kinh
Hoạt động phân tích và tổng hợp của học sinh kém nhạy bén, nhận thức các hiện tượng biến đổi của xã hội còn mang tính chủ quan, cảm tính, bị động...
Khả năng bắt chước một cách máy móc, khả năng phân biệt, tính sáng tạo còn hạn chế.-> GV cần làm mẫu chính xác các kĩ thuật động tác theo yêu cầu bài học
Một số loại hình thần kinh sau:
Loại mạnh - thăng bằng: hưng phấn bình thường, thể hiện trạng thái sức khoẻ tốt, các em này có khả năng hình thành phản xạ nhanh, có tình cảm sâu sắc, bình tĩnh, tự tin, mức độ tập trung cao, trí nhớ tốt…
Loại mạnh - hưng phấn: hưng phấn mạnh, dễ bị kích thích, chóng thích nhưng cũng chóng chán, thành lập phản xạ nhanh nhưng cũng dễ bị phá vỡ, khả năng tập trung tư tưởng kém.
Loại yếu (thụ động): là học sinh nhút nhát, khả năng phản ứng kém, trí nhớ kém phát triển, khó thành lập phản xạ có điều kiện…
Trong quá trình giảng dạy thể dục, thể thao, cần căn cứ vào đặc điểm biểu hiện của các loại hình thần kinh trên để phân loại học sinh, từ đó có các phương pháp giáo dục phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong giáo dục thể chất cho học sinh tiểu học.