PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BÀN TAY NẶN BỘT TRONG DẠY HỌC KHTN Ở TH

Nhược điểm

Ưu điểm

Mục tiêu

Lưu ý

Khái niệm

Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên

Theo phương pháp, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, chính học sinh tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành kiến thức cho mình.

Quy trình thực hiện

Ví dụ

chú trọng hình thành các kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu...

PPDH bàn tay nặn bột còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS.

Tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, say mê yêu khoa học của học sinh

PPDHBTNB chú trọng đến quan điểm ban đầu của HS về kiến thức mới sẽ học.

Dạy học phải tự nhiên như quá trình tìm ra chân lý.

Sử dụng vở thí nghiệm( vở nghiên cứu) như một phương tiện rèn ngôn ngữ, tập ghi chép nghiên cứu khoa học

Với PPBTNB, kể cả HS đọc sách trước, học thêm trước hoặc biết trước kiến thức thì chưa chắc học sinh hiểu tường tận và đề xuất thí nghiệm chứng minh cho phát biểu đúng. Học sinh sẽ lúng túng khi bị hỏi lại: vì sao em biết điều đó?,...Nếu dạy trước thì tiết học không hấp dẫn

Sử dụng PPBTNB không được nhận xét quan điểm của ai đúng, ai sai. Thông qua thí nghiệm chính học sinh sẽ tự đánh giá mình đúng hay sai

PPBTNB có các chủ đề gắn liền với đời sống thực tiễn của học sinh.

Yêu và say mê khoa học, hình thành kiến thức năng lực kiến thức , khoa học.

Rèn kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói, viết

HS được kích thích trí tò mò ham muốn khám phá.

Về phía HS thì các em phải có vốn kiến thức thực tế phong phú, phải chủ động học tập, phải năng động sáng tạo.

Bên cạnh đó GV sẽ gặp khó khăn khi đã có được tình huống nêu vấn đề nhưng HS lại không tìm ra được vấn đề cốt lõi cần tìm hiểu mà GV lại k được phép gợi ý vì sai quy tắc ' Bàn tay nặn bột' là HS tự đặt vấn đề cần tìm hiểu.

Để thực hiện pp này người GV cần phải có kiến thức KHTN vững vàng và khả năng linh hoạt để ứng phó với mọi tình huống bất ngờ xảy ra trong tiết học. Ngay từ bước tiến hành đầu tiên GV phải tìm được tình huống có vấn đề liên quan đến bài học, phù hợp với đối tượng là HS TH để gợi sự khao khát tìm hiểu cái mới lại từ HS. Hai điều này k hề đơn giản, không phải GV tiểu học nào cũng có được.

Và điểu cuối cùng là nếu lớp học thụ động, kiến thức yếu thì khi đó pp này liệu có hiệu quả? Vì tình huống đưa ra các em sẽ không tìm được vấn đề cần đặt ra, các em sẽ không đề xuất được thực nghiệm, sẽ không dự báo được kết quả thực nghiệm....

Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh.

Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm.

Bước 5: Kết luận kiến thức mới

Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu

Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề

Là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học

Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học.

Câu hỏi phải phù hợp với trình độ học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò của học sinh.

Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng

Giáo viên khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật, hiện tưởng mới.

Giáo viên cho học sinh trình bày bằng nhiều hình thức: viết, vẽ, nói, ….

Giáo viên không nhất thiết phải chú ý tới các quan niệm đúng, cần phải chú trọng đến các quan niệm sai.

Đề xuất câu hỏi.

Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu.

Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS đề xuất câu hỏi.

GV cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp từ đó HS đặt câu hỏi liên quan đế bài học.àđể giúp học sinh so sánh

Từ những câu hỏi của HS, GV nêu câu hỏi cho HS đề nghị các em đề xuất thực nghiệm để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó.

GV ghi chú lên bảng các đề xuất của HS để các ý kiến sau không trùng lặp.

Khuyến khích HS tự đánh giá ý kiến nhau hơn là ý kiến của GV nhận xét.

Quan sát tranh và mô hình và ưu tiên thực nghiệm trên vật thật

Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS đề xuất câu hỏi.

GV cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp từ đó HS đặt câu hỏi liên quan đế bài học vàđể giúp học sinh so sánh

Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm.

Bước 4: tiến hành thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu

Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh.

Bước 5: kết luận kiến thức mới

Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.

HS trình bày quan điểm. Không khí gồm khí nito, hoặc bụi hoặc vi khuẩn...

VD khi dạy học không khí gồm những thành phần nào? GV nêu câu hỏi: " theo em không khí gồm những thành phần nào?

VD khi dạy Sự lan truyền âm thanh? GV nêu câu hỏi: Theo em âm thanh lan truyền theo những đường nào

VD khi dạy Sự lan truyền âm thanh? HS nêu câu hỏi:

Âm thanh có thể lan truyền qua không khí được không?

Âm thanh có thể lan truyền qua chất lỏng được không?

Âm thanh có thể lan truyền qua chất rắn được không?

Âm thanh có thể đi yếu hay mạnh hơn khi khoảng cách nguồn âm xa hơn

vd: khi dạy bài không khí gồm những thành phần nào?

Với nội dung tìm hiểu không khí có cabonic, giáo viên sử dụng phương pháp nghiên cứu với nước vôi trong kết hợp với nghiên cứu tài liệu

Sau khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi-nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết,các giả thuyết được kiểm chứng, lý thuyết được hình thành.Giáo viên có nhiệ vj phải tóm tắt kết luận, hệ thống lại kiến thức