Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
PPDH BÀN TAY NẶN BỘT (Các nguyên tắc cơ bản (Thứ nhất: Học sinh quan sát…
PPDH BÀN TAY NẶN BỘT
Các nguyên tắc cơ bản
- Thứ nhất: Học sinh quan sát sự vật, hiện tượng trong thực tế gần gũi với các em.
- Thứ hai: Trong quá trình tự thực nghiệm, học sinh đưa ra ý kiến, thảo luận trong tập thể (nhóm, cả lớp).
- Thứ ba: Giáo viên chỉ thực hiện vai trò đề xuất, tổ chức các thực nghiệm cho học sinh. Giáo viên không làm sẵn cho học sinh.
- Thứ tư: Áp dụng phương pháp này cần một thời lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Tính liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được bảo đảm suốt trong thời gian học tập.
- Thứ năm: Mỗi học sinh có quyển vở thực hành riêng do chính các em ghi chép theo ngôn từ và cách thức của riêng mình.
- Thứ sáu: Học sinh tiếp nhận được các khái niệm khoa học và kĩ thuật thực hành. Song song đó là củng cố ngôn ngữ viết và nói của các em.
- Thứ bảy: Phụ huynh học sinh và tất cả mọi người xung quanh cần được khuyến khích hỗ trợ những điều mà học sinh, lớp học cần để thực nghiệm.
- Thứ chín: Ngành giáo dục, trường sư phạm giúp giáo viên các kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy.
- Thứ tám: Các đối tác khoa học ở địa phương cần giúp các hoạt động của lớp theo khả năng của mình.
- Thứ mười: Giáo viên cần chủ động tự học, tự tìm hiểu tài liệu, kiến thức liên quan; trao đổi với đồng nghiệp, các nhà khoa học… để nâng cao kiến thức. Giáo viên là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách.
Lưu ý khi dạy học
- Dạy học phải tự nhiên như quá trình tìm ra chân lý.
- Với PPBTNB, kể cả HS đọc sách trước; học thêm trước hoặc biết trước kiến thức thì chưa chắc HS hiểu tường tận và đề xuất thí nghiệm chứng minh cho phát biểu đúng. HS sẽ lúng túng khi hỏi lại: vì sao em biết điều đó? Làm thế nào để em có thể chứng minh kết luận của em đúng?. Nếu dạy trước thì tiết học không hấp dẫn.
- PPBTNB chú trọng đến quan niệm ban đầu của học sinh về kiến thức mới sẽ học.
- Sử dụng vở thí nghiệm (vở nghiên cứu), như là một phương tiện rèn ngôn ngữ, tập ghi chép nghiên cứu khoa học.
- Sử dụng PPBTNB không được nhận xét quan điểm của ai đúng, ai sai. Thông qua thí nghiệm, chính HS sẽ tự đánh giá đúng hay sai.
- PPBTNB áp dụng chủ yếu cho dạy khoa học tự nhiên, công nghệ, khoa học TN, các chủ đề gắn với đời sống thực tiễn của HS.
- Trong chương trình hiện nay có bài học áp dụng cả bài, có bài chỉ áp dụng một phần.
Ví dụ minh họa
-
Chuẩn bị đồ dùng:
- tranh sách giáo khoa phóng to
- tranh sưu tầm
- tài liệu sưu tầm nói về sự hình thành mây , mưa
B1.Tình huống xuất phát và nêu vấn đề:
- Gv cho học sinh cùng nghe bài hát "mưa bong bóng"
- GV hỏi : theo các em mây được hình
thành như thế nào ? mưa từ đâu ra ?
B2. Biểu tượng ban đầu của HS:
- Cho học sinh ghi lại những suy nghĩ của mây được hình thành như thế nào? Mưa từ đâu ra ?
- Thảo luận nhóm 4 để ghi lại trên bảng
nhóm ( có thể ghi lại bằng hình vẽ sơ đồ ).
*mây do khói bay lên tạo nên
*mây do hơi nước bay lên tạo nên
- Ví dụ : về 1 vài cảm nhận của học sinh
*mây do khói và hơi nước tạo thành
*khói ít tạo nên mây trắng , khói nhiều tạo nên mây đen
*hơi nước ít tạo nên mây trắng , hơi nước nhiều tạo nên mây đen
*mây tạo nên mưa
*khi mây nhiêu thì sẽ tạo thành mưa
B3. Đề xuất câu hỏi và phương án tìm tòi Mây được hình thành như thế nào ?
- yêu cầu học sinh tìm ra những điểm mưa từ đâu ra ?
- GV tổ chức cho học sinh đề xuất các câu hỏi để tìm hiểu. Khi HS đề xuất câu hỏi GV tập hợp các câu hỏi sát với nội dung bài ghi lên bảng.
*mây có phải do khói tạo thành không ?
*mây có phải do hơi nước tạo thành không ?
- vì sao lại có mây đen , lại có mây trắng ?
B4. thực hiện phương án tìm tòi :
- GV tổ chức cho các nhóm báo cáo kết đồ hình thành mây vào vỡ ghi chép khoa học.
- Cho học sinh so sánh những cảm nhận thành mây mà phải nhờ các hạt bụi nhỏ ban đầu về sự hình thành mây , mưa và trong khí quyền.
-
-
Thuận lợi
- Hiện nay, Bộ GD&ĐT đang thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện nền GD trong đó đổi mới PPDH là một trong các nhiệm vụ cấp bách. Phương pháp BTNB được Bộ GD&ĐT quyết định đầu tư nghiên cứu, biên soạn tài lệu, tổ chức tập huấn để từng bước triển khai áp dụng.
- Phương pháp BTNB là một phương pháp có tiến trình dạy học rõ ràng, dễ hiểu, có thể áp dụng được ở điều kiện của Việt Nam. Đội ngũ CBQL và GV luôn nhiệt tình, ham học hỏi là điều kiện tốt thúc đẩy việc áp dụng phương pháp BTNB vào trong dạy học các môn khoa học trong ở trường tiểu học và THCS.
- Qua quá trình thử nghiệm áp dụng phương pháp BTNB vào trong lớp học, HS hứng thú với những hoạt động tìm kiếm kiến thức mới.
Khó khăn
Về điều kiện, cơ sở vật chất:
- Bàn ghế bố trí không thuận lợi cho việc tổ chức học theo nhóm.
- Phần lớn các trường chưa có phòng bộ môn và phòng thí nghiệm.
- Trang thiết bị dạy học chưa đầy đủ.
-
Về đội ngũ giáo viên:
- Trình độ GV hiện nay chưa đồng đều cả về chuyên môn và năng lực sư phạm. Kiến thức chuyên sâu về khoa học của một bộ phận không nhỏ GV còn hạn chế.
- Năng lực sư phạm của GV trong việc áp dụng các PPDH mới nói chung còn hạn chế.
Về công tác quản lí:
- Quan điểm đánh giá giờ dạy của CBQL nặng tính hình thức với các tiêu chí đánh giá mà chưa chú ý nhiều đến hiệu quả hoạt động nhận thức cho HS.
- Công tác kiểm tra, đánh giá kiến thức của HS chưa đổi mới theo hướng đánh giá kĩ năng và sự sáng tạo của HS, các bài thi, kiểm tra chủ yếu vẫn là kiểm tra sự ghi nhớ và vận dụng lí thuyết của HS.
Mục tiêu
- Tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học của học sinh.
- Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
Khái niệm
Phương pháp Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm tìm tòi- nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên.