Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Các nguyên tắc giáo dục thể chất - Coggle Diagram
Các nguyên tắc giáo dục thể chất
5.1. Nguyên tắc tự giác tích cực
Tính tự lập là một trong những hình thức cao nhất của tính tích cực, biểu hiện qua hoạt động hăng hái để tự giải quyết những nhiệm vụ do kích thích nội tâm của từng người tạo nên.
NTTG TC thể hiện qua các yêu cầu
Giáo dục thái độ tự giác và hứng thú bền vững đối với mục đích tập luyện chung cũng như đối với các nhiệm vụ cụ thể của từng buổi tập
1.2. Xây dựng ý thức và tính bền vững trong tập luyện
Xây dựng hứng thú bền vững: người tập nhận thức được ý nghĩa cụ thể của các nhiệm vụ cần được thực hiện, sử dụng, xây dựng phương pháp, phương tiện tiến hành giờ lên lớp mang sức hấp dẫn.
Quan tâm trước hết đến ý thức của người tập
Nhu cầu và hứng thú là hai động cơ lớn
1.1. Nâng cao sự hứng thú với công việc
Xác định được động cơ tham gia hoạt động đó- nguyên nhân thúc đẩy con người ta học tập
Dựa trên những động cơ ban đầu đó mà khéo dẫn dắt người tập đến hiểu được bản chất xã hội sâu sắc của Thể dục thể thao
Một phương tiện quan trọng để phát triển cân đối, củng cố sức khoẻ, chuẩn bị cho lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.
Kích thích việc phân tích có ý thức, việc kiểm tra và sử dụng hợp lý sức lực khi thực hiện bài tập Thể dục, thể thao
Sự hình thành các kỹ xảo vận động luôn gắn với tự động hóa động tác. Về nguyên tắc, sự tự động hóa không hề làm giảm vai trò của ý thức. Ngược lại, đó là một trong những điều kiện để nâng cao chất lượng điều khiển có ý thức đối với hoạt động vận động.
Giáo viên có vai trò chủ đạo trong đánh giá và uốn nắn hoạt động của người tập. Đồng thời, kết quả của việc tập luyện còn phụ thuộc trực tiếp vào sự tự đánh giá của người tập, kể cả năng lực đánh giá đúng lúc và chính xác các thông số về không gian, thời gian và sức lực trong tiến trình thực hiện chúng
cần phải sử dụng các phương pháp, mà ở một mức lớn, sẽ kích thích sự phát triển các năng lực tự đánh giá và tự kiểm tra đối với động tác ở người tập
Các phương pháp luyện tập động não giúp tái hiện trong ý nghĩ các tác nhân điều chỉnh hay hoàn thiện các giai đoạn khác nhau của động tác trước khi thực hiện chúng trong thực tế có ý nghĩa đặc biệt
Giáo dục tính sáng kiến, tự lập và tính sáng tạo đối với các nhiệm vụ
3.2. Hứng thú thực sự chi phối tính tích cực
3.1. Tính chủ động, tự lập, sáng tạo
Hoạt động vận động tích cực là đối tượng nghiên cứu cơ bản, đồng thời là phương tiện cơ bản của sự phát triển các năng lực trong quá trình Giáo dục thể chất.
GV phải kích thích phát triển các biểu hiện sáng tạo của HS :phải giáo dục thích hợp kĩ năng tự giải quyết các nhiệm vụ vận động và sử dụng hợp lý các phương tiện Giáo dục thể chất.
3.3.muốn người tập bộc lộ được tính chủ động, tự lập, sáng tạo thì cần phải
Giáo dục học sinh tự biết giải quyết các kỹ năng vận động, biết sử dụng các phương tiện hoạt động hợp lí
Giáo dục sự ham thích (hứng thú) cho học sinh bằng cách lựa chọn nội dung tập luyện hấp dẫn và hình thức tổ chức tập luyện phù hợp
Thường thể hiện qua hoạt động tự giác, gắng sức nhằm hoàn thành những nhiệm vụ học tập - rèn luyện: thái độ học tập tốt, sự cố gắng nắm được những kỹ năng, kỹ xảo vận động cùng những hiểu biết có liên quan, phát triển các phẩm chất về thể lực và tinh thần
5.2. Nguyên tắc trực quan
5.2.1. Định nghĩa
Theo quan niệm cũ thì “trực quan” là những gì mà ta trực tiếp nhìn thấy
Nói cách khác , trực quan là tất cả những gì mà con người cảm nhận được thế giới khách quan thông qua các giác quan
5.2.2. Vai trò
Quy luật của quá trình nhận thức là “trực quan sinh động”, từ mức độ cảm giác đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng tác động lại thực tế.
Tính trực quan đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, bởi vì hoạt động của con người về cơ bản là mang tính chất thực hành và có một trong những nhiệm vụ chuyên môn của mình là phát triển toàn diện các cơ quan cảm giác.
5.2.3. Ý nghĩa
5.2.3.1. Tính trực quan – một tiền đề cần thiết để tiếp thu động tác
Sự hoạt động của các cơ quan cảm giác vừa bổ sung cho nhau, vừa làm chính xác động tác
Hình ảnh cảm giác càng phong phú (dĩ nhiên là trong các điều kiện khác nhau) thì các kĩ năng và kỹ xảo vận động được hình thành trên cơ sở cảm giác đó càng nhanh, các tố chất thể lực và phẩm chất ý chí biểu hiện càng hiệu quả hơn.
Có hai loại trực quan
Trực quan trực tiếp: Bao gồm làm mẫu và phương pháp cảm giác qua (tự người học làm).
Trực quan gián tiếp: Sử dụng các giáo cụ trực tiếp như phim ảnh, biểu đồ…Mô phỏng và sử dụng lời nói có hình ảnh cũng được gọi là trực quan gián tiếp.
Mối liên hệ lẫn nhau giữa hai loại trực quan: Trong hai loại trực quan kể trên, thì trực quan trực tiếp đứng hàng đầu; song không được đánh giá nhẹ trực quan gián tiếp. Nhiều khi trực quan gián tiếp còn có ưu thế hơn trực quan trực tiếp, nhất là trong giải thích chi tiết về cơ chế động tác mà khó quan sát trực tiếp được, hoặc hoàn toàn không nhìn thấy. Không chỉ thế, giữa hai loại trực quan này còn có mối liên hệ bổ sung cho nhau.
5.2.3.2. Tính trực quan – là điều kiện không thể tách rời trong hoàn thiện hoạt động vận động
Bài tập Thể dục, thể thao có ba đặc tính: Không gian, thời gian và mức độ dùng sức => không thể hoàn thiện các kỹ năng vận động cũng như sự phát triển các năng lực thể chất nói chung nếu không thường xuyên dựa vào các cảm giác, tri giác, biểu tượng trực quan rành mạch…
Nguyên tắc trực quan không những quan trọng trong hình thành và hoàn thành năng lực vận động, nó còn là điều kiện chung nhất, cần thiết nhất để đặc biệt thực hiện các nguyên tắc giáo dục.
5.3. Nguyên tắc thích hợp và cá biệt hóa
5.3.1. Xác định mức độ thích hợp
Tính thích hợp của bài tập TDTT phụ thuộc trực tiếp vào các khả năng của người tập, các khó khăn khách quan khi thực hiện một bài tập
Khi XĐ mức độ thích hợp, phải dựa vào các chương trình và các yêu cầu có tính chất tiêu chuẩn đã được xác định cho mỗi loại đối tượng cụ thể, các chương trình về GDTC cho tất cả các loại đối tượng cơ bản
Dựa vào các số liệu về khả năng của người tập thu được qua kiểm tra trình độ chuẩn bị thể lực, kiểm tra y học, Gv sẽ cụ thể hóa chương trình, vạch ra giới hạn thích hợp cho môi giai đoạn cụ thể.
5.3.2. Những yêu cầu về ph¬ương pháp để đảm bảo tính thích hợp
Mọi người đều biết, các kĩ năng và kĩ xảo mới sẽ xuất hiện trên cơ sở các kĩ năng, kĩ xảo đã được tiếp thu từ tr¬ước, kể cả các yếu lĩnh riêng lẻ của chúng
Cần phân nội dung học sao cho mỗi một buổi tập trư¬ớc lại trở thành bậc thang dẫn dắt bằng con đ¬ường ngắn nhất tới việc tiếp thu một nội dung của buổi tập tiếp theo
đảm bảo tính tuần tự trong việc chuyển từ những nhiệm vụ tương đối dễ sang những nhiệm vụ khác khó hơn
Khái niệm về sự đơn giản hay phức tạp của các hoạt động vận động có liên quan đến cấu trúc của chúng
Khi đánh giá độ khó của các bài tập Thể dục, thể thao cần phải phân biệt mức phức tạp về phối hợp vận động và mức độ gắng sức khi thực hiện các bài tập đó
Cá biệt hóa theo xu hướng chung và theo các cách thức riêng trong Giáo dục thể chất. Ở đây, đó là sự xây dựng toàn bộ quá trình Giáo dục thể chất và sử dụng các phương tiện phương pháp và hình thức thực hiện riêng của quá trình đó sao cho có thể đối xử cá biệt với người tập và tạo được những điều kiện để phát triển tốt nhất các năng lực của họ.
5.3.3. Cá biệt hoá theo xu h¬ướng chung và con đường riêng (đối xử cá biệt)
Cá biệt hóa nghĩa là xây dựng quá trình tập luyện, lựa chọn phương tiện, phư¬ơng pháp và hình thức cho phù hợp đối với từng đối tượng nhằm tạo điều kiện phát triển cao nhất năng lực của người tập.
giải quyết cá biệt hóa trên cơ sở phối hợp hữu cơ hai xu hướng – chuẩn bị chung và chuyên môn hóa
Chuẩn bị chung (như chuẩn bị thể lực chung theo chương trình Giáo dục thể chất của trường phổ thông, trường đại học…) nhằm giúp cho mọi người nắm được một số kĩ năng, kĩ xảo quan trọng, tối thiểu, bắt buộc trước cuộc sống cũng như những kiến thức liên quan, đồng thời giúp phát triển toàn diện các tố chất thể lực đến một trình độ nhất định.
Chuyên môn hoá (đặc biệt là chuyên môn hoá thể thao) nhằm hoàn thiện sâu hơn về một môn hoạt động đã đ¬ược chọn lọc.
Đối xử cá biệt trong quá trình dạy học và giáo dục là cần thiết để giải quyết bất kì nhiệm vụ riêng nào, từ hình thành các kiến thức, kĩ năng và kĩ xảo cho đến giáo dục các tố chất thể lực và phẩm chất, ý chí
5.3.4. Cơ sở của cá biệt hóa
Không có những cơ thể giống nhau hoàn toàn về năng lực và chức phận cũng như diễn biến vận động và khả năng thích nghi
Các đặc điểm cá nhân không loại trừ những nét chung giữa các cá thể khác nhau. Vì vậy, sẽ sai lầm nếu coi cá biệt hóa như một cái gì đó không thể dung hòa được với những con đường chung của quá trình sư phạm. Sự cá biệt hóa phải dựa trên cơ sở các quy luật chung về dạy học và giáo dục
nhấn mạnh đến việc tùy thuộc vào đặc điểm cá nhân để tiến hành Giáo dục thể chất sao cho phù hợp; song không có nghĩa là chỉ bị động chạy theo nó
5.5. Nguyên tắc tăng dần yêu cầu
5.5.1. Cơ sở của nguyên tắc
Căn cứ vào quy luật tiết kiệm hóa chức năng.
Căn cứ vào quy luật thích nghi của cơ thể.
5.5.2. Bản chất của nguyên tắc
5.5.2.1.Tăng lượng vận động
Tạo ra kỹ xảo phong phú, hình thành kỹ xảo mới, củng cố kỹ xảo cũ, tạo điều kiện cho hoạt động dễ dàng
Một điều cũng không kém phần quan trọng khác là trong quá trình tiếp theo của các liên hợp động tác khác nhau, nhờ khắc phục được những khó khăn “những nhiệm vụ vận động” nảy sinh đó mà phát triển được ngay cả năng lực vận động, phối hợp vận động, cải tạo và hoàn thiện không ngừng hoạt động vận động.
Những biến đổi tốt xảy ra trong cơ thể dư¬ới tác động của các bài tập tỉ lệ thuận (trong những giới hạn sinh lý học nhất định) với khối l¬ượng và c¬ường độ vận động.
Khi tăng lượng vận động, cần đảm bảo yêu cầu sau:
Tăng đảm bảo vừa sức (không quá mức cơ năng của cơ thể), phù hợp với lứa tuổi, giới tính và đặc điểm cá nhân.
Đảm bảo tính tuần tự (tính kế thừa và quan hệ lẫn nhau giữa các buổi tập).
Thường xuyên luyện tập.
Luân phiên hợp lí giữa vận động và nghỉ ngơi.
Kết quả vận động phải đảm bảo đến mức bền vững (kỹ xảo vận động). Tính bền vững của sự thích nghi thông qua sự phát triển thể chất.
5.5.2.2. Các hình thức diễn biến lượng vận động
Trong trường hợp thứ nhất, lượng vận động tăng không đều (thí dụ, theo từng tuần một). Tính tuần tự được đảm bảo nhờ nhịp độ tăng tương đối không cao và những quãng nghỉ giữa các buổi tập không lớn.
Trong trường hợp thứ hai, khi diễn biến theo bậc thang, sự tăng lượng vận động được kết hợp luân phiên với sự ổn định tương đối lượng vận động trong thời gian một số buổi tập. Ở đây biểu hiện rõ nét hơn các hiện tượng ổn định, giúp giảm nhẹ diễn biến của các quá trình thích nghi. Hình thức diễn biến như thế này cho phép áp dụng các lượng vận động lớn hơn.
Thứ ba, đặc điểm tiêu biểu của diễn biến theo làn sóng là sự phối hợp việc nâng tương đối từ từ lượng vận động với việc tăng cao nhanh, rồi lại giảm lượng vận động, sau đó “sóng này” lại được lặp lại ở trình độ cao hơn. Cách này cho phép không vi phạm tính tuần tự vừa đưa khối lượng và cường độ vận động đến những trị số lớn nhất.
5.4. Nguyên tắc hệ thống
Bản chất
Thường xuyên tập luyện.
Sự luân phiên hợp lí giữa luyện tập và nghỉ ngơi.
Luyện tập lặp lại kết hợp biến dạng và sự tuần tự các buổi tập và mối quan hệ giữa các nội dung luyện tập.
5.4.1Luyện tập lặp lại kết hợp biến dạng và sự tuần tự các buổi tập và mối quan hệ giữa các nội dung luyện tập.
Một điều dễ nhận thấy là luyện tập thường xuyên mang lại hiệu quả tât nhiên lớn hơn tập thất thường.Giáo dục thể chất phải là quá trình quanh năm, nhiều năm và trong suốt cuộc đời
Tập luyện hợp lý gây nên những biến đổi d¬ương tính về chức năng và cấu trúc. Chỉ cần ngừng tập luyện trong một thời gian tư¬ơng đối ngắn có ảnh hưởng âm tính tới kết quả tập luyện.
Tập luyện thường xuyên không có nghĩa là lúc nào cũng tập, tập không nghỉ ngơi mà phải đảm bảo không có khoảng dừng dài đến mức làm giảm (mất đi) giá trị trước đó đã thu được nhờ tập luyện.
Hiệu quả của một số buổi tập được cộng gộp lại làm xuất hiện hiệu quả tích lũy của cả một hệ thống các buổi tập, tức là làm xuất hiện những biến đổi thích nghi tương đối vững chắc về cấu trúc và chức năng.
5.4.2.Khi luyện tập Thể dục, thể thao phải kết hợp luân phiên hợp lí giữa vận động và nghỉ ngơi, cần lựa chọn quãng nghỉ sao cho phù hợp
Nghỉ ngơi và tập luyện là một tất yếu khách quan, là hiệu quả
của nhau
Nghỉ ngơi là điều kiện cần thiết để tạo sự phục hồi cơ thể. Hơn nữa đặc điểm nghỉ ngơi còn có tác dụng tích cực đến việc ghi nhận hiệu quả của lượng vận động.
5.4.3.Tuần tự của các bài tập và mối liên hệ với nhau giữa các mặt khác nhau trong nội dung các buổi tập
Trình tự hợp lý của các buổi tập có liên quan rất chặt chẽ với vấn đề tính thích hợp.Trong quá trình dạy học phải tuân thủ các quy tắc " từ biết đến chưa biết", từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó
Tính hệ thống bao gồm việc sinh động hóa mối quan hệ giữa các nội dung học tập tuần tự thích hợp trong việc thực hiện các nội dung đó ở từng buổi tập, giữa các buổi tập kế tiếp nhau và ở cả quá trình luyện tập lâu dài
Sự chuyển từ giáo dưỡng thể chất chung, rộng rãi sang tập luyện chuyên môn hóa là điều hoàn toàn logic
Trình tự của nội dung tập luyện ở mỗi giai đoạn cụ thể của quá trình Giáo dục thể chất còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện cụ thể, như¬ng phụ thuộc nhiều nhất là vào các mối liên hệ quan trọng, khách quan giữa các hoạt động, môn thể thao lựa chọn, vào tính kế thừa và sự tác động lẫn nhau giữa các môn đó.
Khi xây dựng hệ thống các buổi tập thì các bài tập thể lực cần phải sử dụng tối đa sự “chuyển tốt” các kĩ xảo rất khác nhau, trong đó các tố chất và kỹ xảo có thể gây tác động xấu lẫn nhau.
Từ những điều nói trên nảy sinh vấn đề cần hạn chế sự phát triển kìm hãm của "chuyển xấu” và biến nó thành yếu tố tốt
Trong chọn lựa trình tự hợp lí của các buổi tập và các bài tập trong mỗi buổi tập riêng lẻ cần tính toán đến hiệu quả gần nhất của các lượng vận động có tính chất khác nhau