Please enable JavaScript.
Coggle requires JavaScript to display documents.
Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột (Một số lưu ý khi sử dụng (1.Học sinh…
Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột
Khái niệm
Phương pháp bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên.
Bàn tay nặn bột chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra..
Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, Bàn tay nặn bột luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
ưu , nhược điểm
ưu điểm
Không phải tốn thời gian cho việc thuyết trình giảng giải
Kiến thức được HS tiếp nhận một cách tự nhiên,thoải mái , không gò ép
Rèn kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngũ nói và viết cho học sinh, kĩ năng xử lí tình huống , kĩ năng phán đoán , lập luận, bảo vệ ý kiến cá nhân
Học sinh mạnh dạn tự tin trước đám đông
Kích thích tính tò mò,ham muốn khám phá và say mê khoa học của học sinh
Tự chiếm lĩnh kiến thức qua thực nghiệm sẽ nhớ lâu
nhược điểm
GV
Rất khó tổ chức cho HS đi thăm điểm hoặc điều tra
GV cần xác định kiến thức khoa học phù hợp để áp dụng phương pháp BTNN
Trang thiết bị chưa đầy đủ cho thí nghiệm hoặc chưa đảo bảo tính khoa học
Học sinh
HS lớp gặp nhiều khó khăn trong việc ghi vở thực nghiệm, tốn thời gian
Tốn nhiều thời gian cho việc trình bày ý tưởng các nhân
Làm thí nghiệm có thể thất bại nhiều lần
Ví dụ: Bài 47 HOA ( Tn&xh 3)
Chuẩn bị
Xác định mục đích sử dụng phương pháp: +Học sinh kể tên và nhận biết một số bộ phận thường có của một bông hoa
+Rèn cho học sinh ý thức tự giác tích cực học tập, yêuthích hoa và có ý thức bảo vệ môi trường
xác định hình thức tổ chức học sinh : Nhóm
Chuẩn bị phương tiện đồ dùng : Hoa thật, tranh ảnh về các loại hoa ở sgk
Dự kiến thời gian , địa điểm: 15 phút, tại lớp học
Cách tiến hành
Bước 1 : Tình huống xuất phát
-Giáo viên đưa ra một vài bông hoa sau đó đặt câu hỏi và nêu vấn đề
-Quan sát và cho biết đây là hoa gì?
-Theo các em trong hoa có những gì? Cấu tạo của chúng gồm những bộ phận gì?
Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu
Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh : quan sát hoa hồng và hoa dâm bụt mà các em đã chuẩn bị trước , thảo luận theo nhóm trả lời câu hỏi: Hoa có những bộ phận gì ?
Bước 3: Đề xuất câu hỏi
-Giáo viên cho học sinh suy nghĩ ,thảo luận nhóm đề xuất các câu hỏi nghiên cứu " Hoa có những bộ phận gì?"
-Giáo viên hỗ trợ để giúp học sinh có những câu hỏi phù hợp
-Giáo viên hướng dẫn gợi ý để học sinh đề xuất phương án để trả lời cho câu hỏi
-Để trả lời câu hỏi đó các em phải làm gì? Đó là phải tách hoa ra để tìm hiểu
Bước 4: Tiến hành thì nghiệm
-Học sinh thực hiện qua các bước
Tách hoa ra
Phân loại các thành phần của hoa
Nhận biết đặc điểm và gọi tên các thành phần của hoa
Giáo viên khéo léo nhận xét kết quả của các nhóm, , lưu ý đưa ra những điểm sai
Yêu cầu học sinh vẽ lại sơ đồ các thành phần của hoa
Bước 5: Kết luận và rút ra kiến thức
Giáo viên cho học sinh quan sát một bức tranh phóng to về cấu tạo bêb trong của hoa
-Giáo viên giới thiệu cấu tạo của hoa qua bức tranh
-Giáo viên kết luận:
Hoa gồm các bộ phận :cuống, đài, cánh, nhị , nhụy
Cách tiến hành
bươc 1: chuẩn bị
lựa chọn nội dung
xác định hình thức, thời gian, địa điểm .
xác định mục đích sử dụng phương pháp
chuẩn bị đồ dùng dạy học
dự kiến tình huống
bước 2: tiến hành
đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thí nghiệm
đề xuất câu hỏi
từ những khác biêt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS đề xuất câu hỏi
GV cần khéo léo lựa chọn một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp từ đó HS đặt câu hỏi liên quan đến bài học và đạt kết quả tốt, giúp HS so sánh.
đề xuất pp thí nghiệm nghiên cứu
GV ghi chú lên bảng về các đề xuất của học sinh, để các ý kiến không trùng lặp nhau và để tạo thành hệ thống tiện theo dõi.
GV khuyến khích học sinh tự đánh giá ý kiến của nhau
Tư nhưng câu hỏi của HS, GV nêu câu hỏi cho HS đề nghị các em đề xuất thực nghiệm đề tìm ra câu trả lời.
tiến hành thực nghiệm tìm tòi và nghiên cứu
Từ những khác biệt về biểu tượng phong phú ban đầu, GV giúp HS đề xuất câu hỏi
GV cần khéo léo lựa chọn một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp từ đó HS đặt câu hỏi liên quan đến bài học và đạt kết quả tốt, giúp HS so sánh.
Quan sát tranh, mô hình và ưu tiên thực hiện trên vật thật
bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh
GV cho HS trình bày bằng nhiều hình thức vẽ, viết, nói....
GV không nhất thiết phải chú ý đến quan niệm đúng, cần phải chú trọng đến các quan niệm sai
GV khuyến khích HS nêu lên những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật hiện tượng mới.
kết luận và hơp thức hóa kiến thức
HS rút ra kết luận sau khi thực nghiệm
GV khác sâu kiến thức cho học sinh
Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
câu hỏi nêu vẫn đề là câu hỏi lớn của bài học
câu hỏi phải phù hợp với trình độ của học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò của học sinh.
là một tình huống do GV chủ động đưa ra như một cách dẫn nhập vào bài học
Gv phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng
Một số lưu ý khi sử dụng
1.Học sinh quan sát một vật hoặc một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi, có thể cảm nhận được và tiến hành thực nghiệm về chúng.
Trong quá trình học tập, học sinh lập luận và đưa ra các lý lẽ, thảo luận về các ý kiến và các kết quả đề xuất, xây dựng các kiến thức cho mình, một hoạt động chỉ dựa trên sách vở là không đủ.
Các hoạt động giáo viên đề ra cho học sinh được tổ chức theo các giờ học nhằm cho các em có sự tiến bộ dần dần trong học tập. Các hoạt động này gắn với chương trình và giành phần lớn quyền tự chủ cho học sinh.
Tối thiểu 2 giờ một tuần dành cho một đề tài và có thể kéo dài hoạt động trong nhiều tuần. Tính liên tục của các hoạt động và những phương pháp sư phạm được đảm bảo trong suốt quá trình học tập tại trường.
Mỗi học sinh có một quyển vở thí nghiệm và học sinh trình bày trong đó theo ngôn ngữ của riêng mình.
Mục đích hàng đầu đó là giúp học sinh tiếp cận một cách dần dần với các khái niệm thuộc lĩnh vực khoa học, kĩ thuật...kèm theo một sự vững vàng trong diễn đạt nói và viết.
Muc tiêu
Mục tiêu của phương pháp Bàn tay nặn bột là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học của học sinh.
Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
Nguyên tắc
Học sinh cần phải hiểu rõ câu hỏi đặt ra hay vấn đề trọng tâm của bài học
Tự làm thí nghiệm là cốt lõi của việc tiếp thu kiến thức khoa học
Tìm tòi nghiên cứu khoa học đòi hỏi học sinh nhiều kĩ năng. Một trong các kĩ năng cơ bản đó là thực hiện một quan sát có chủ đích.
Học khoa học không chỉ là hành động với các đồ vật, dụng cụ thí nghiệm mà học sinh còn cần phải biết lập luận, trao đổi với các học sinh khác, biết viết cho mình và cho người khác hiểu.
Dùng tài liệu khoa học để kết thúc quá trình tìm tòi - nghiên cứu
Khoa học là một công việc cần sự hợp tác.