XÁC ĐỊNH TUỔI THAI
TỔNG QUAN
ĐỊNH NGHĨA
Tuổi thai là số ngày tính từ ngày đầu chu kỳ kinh cuối
tuổi thai thường được dùng trong thực hành lâm sàng lớn hơn tuổi thật của phôi/thai 14 ngày
CẦN XÁC ĐỊNH SỚM TRONG THAI KÌ vì
- đưa ra lịch trình thăm khám phù hợp cho thai phụ,
- xác định được thời điểm thực hiện các xét nghiệm sàng lọc cho thai nhi,
- đưa ra hướng xử trí phù hợp trong trường hợp dọa sinh non, sinh non hay thai quá ngày
- đánh giá đúng sự tăng trưởng của thai nhằm phát hiện kịp thời những trường hợp thai tăng trưởng bất thường.
- giảm được tỉ lệ can thiệp trong thai quá ngày,
- cải thiện được giá trị dự đoán của test sàng lọc trong hội chứng Down.
CÁC PHƯƠNG PHÁP LÂM SÀNG
NGÀY ĐẦU KINH CHÓT
Ngày sinh dự đoán là 280 ngày kể từ ngày đầu kỳ kinh cuối cùng, (công thức Naegele: NGÀY + 7, THÁNG -3)
ĐIỀU KIỆN
Muốn tính được chính xác cần:
- kinh đều, chu kỳ 28 ngày, có phóng noãn xảy ra vào ngày 14 của chu kỳ và hiện tượng thụ tinh cũng xảy ra tại thời điểm này,
- Thai phụ phải nhớ chính xác ngày đầu kỳ kinh cuối và không sử dụng tránh thai nội tiết gần thời điểm mang thai (trong vòng 2 tháng).
BẤT LỢI
- chu kỳ kinh dài, không đều hoặc hiện tượng xuất huyết âm đạo bình thường hay bất thường trong tam cá nguyệt I
- Một người phụ nữ bình thường có thể có nhiều đoàn hệ nang noãn được chọn lọc và phát triển trong cùng một chu kỳ kinh nên thời điểm phóng noãn không phải luôn hằng định.
- Phóng noãn muộn có thể khiến thai kỳ “kéo dài” nếu tuổi thai được tính bằng ngày đầu kỳ kinh cuối đơn thuần. (Phóng noãn muộn lại thường xảy ra hơn so với phóng noãn sớm).
- Mặt khác, tinh trùng có thể sống 5-7 ngày trong đường sinh dục nữ => ngày thụ tinh cũng khó có thể biết chính xác được.
NHIỀU SAI LỆCH
T/H THAI KÌ NHỜ
KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN
- có thể tính tuổi thai một cách chính xác vì biết được ngày phóng noãn hoặc ngày chuyển phôi và tuổi phôi.
- Trong trường hợp chuyển phôi, ngày dự sinh có thể tính được bằng cách lấy 266 trừ đi tuổi phôi (tính bằng ngày).
THĂM KHÁM LÂM SÀNG
Liên quan đến tuổi thai nhưng không dùng để tính tuổi thai.
Tử cung gia tăng kích thước khi thai lớn lên
-> kích thước tử cung có liên quan đến tuổi thai.
- ước lượng tuổi thai (tính theo tháng) = bề cao tử
cung / 4 + 1.
- Thông thường, khi thai được 20 tuần, đáy tử cung sẽ nằm ở
ngang rốn, sau 20 tuần bề cao tử cung (tính bằng cm) sẽ tương ứng với số tuần tuổi thai.
- Tuy nhiên, cách tính này không thể cho ra được tuổi thai cụ thể theo tuần thậm chí theo ngày và còn bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như: tử cung có u xơ, thành bụng người mẹ dầy, mức độ tăng trưởng của thai…
=> Trong thực hành không dùng các dữ kiện này để tính tuổi thai. ❌❌❌
SIÊU ÂM ĐỊNH TUỔI THAI
- Có thể dùng siêu âm để định tuổi thai vì kích thước của phôi và thai phát triển tương ứng với tuổi thai.
- Tuy nhiên, sự khác biệt về sinh trắc của phôi ở tam cá nguyệt I ít hơn của thai ở cuối tam cá nguyệt II và III
=> siêu âm trong tam cá nguyệt I (đến 13 tuần 6 ngày) là phương pháp chính xác nhất để định tuổi thai. ✅ ✅ ✅
CÁC CHỈ SỐ SINH TRẮC
THƯỜNG DÙNG
Đường kính trung bình của túi thai
mean gestational sac diameter - MSD
chỉ số có thể đo đạc được sớm nhất
- khi thai 3-5 tuần tuổi, trên siêu âm có thể thấy được hình ảnh của một túi thai tròn đều, có hình ảnh vòng đôi, sẽ phát triển thành xoang ối sau này.
- Túi thai sớm nhất có thể thấy được qua siêu âm ngả âm đạo khi có kích thước 2-3 mm tương ứng với tuổi thai 32-33 ngày, MSD tăng trung bình 1 mm mỗi ngày.
Đây là yếu tố phổ biến, tiêu chuẩn giúp định tuổi thai sớm nhất qua siêu âm.
Tuổi thai (ngày) = MSD + 30.
độ chính xác của MSD sẽ giảm khi MSD > 14 mm hoặc khi xuất hiện phôi
-> không nên dùng MSD để tính tuổi thai nữa vì sai số hơn so với CRL.
Túi noãn hoàng (Yolk-sac) 🚫
- có thể thấy sớm nhất lúc thai 5 tuần hoặc trễ hơn, lúc thai 6 tuần.
- đạt kích thước lớn nhất vào khoảng 6 mm lúc thai 10 tuần, sau đó nó sẽ di chuyển ra ngoại vi của xoang ối.
Tuy nhiên, người ta không dùng yolk sac để xác định tuổi thai.
chiều dài đầu mông
crown-rump length (CRL)
chỉ số giúp định tuổi thai chính xác nhất với sai số ± 3-8 ngày.
CRL đo được tốt nhất khi ≥ 10 mm nên nếu có nhiều kết quả siêu âm ở tam cá nguyệt I thì nên dùng kết quả siêu âm sớm nhất với CRL ≥ 10 mm để tính tuổi thai
Tuổi thai (tuần) = CRL + 6.5 hoặc (CRL + 42) / 7.
Khi CRL > 84 mm thì độ chính xác giảm
-> sử dụng các chỉ số sinh trắc khác.
đường kính lưỡng đỉnh (biparietal diameter) (BPD),
chu vi đầu (head circumference) (HC)
- thời điểm 11 - 13 tuần 6 ngày, sử dụng CRL và BPD có độ chính xác tương đương nhau trong việc định tuổi thai
- tuy nhiên khi CRL > 84 mm thì nên dùng BPD hoặc HC.
Tại thời điểm 11 tuần, trị số BPD trung bình là 17 mm và sẽ tăng 3 mm mỗi tuần.
Tuổi thai (tuần vô kinh) = 1/3 x (BPD – 17) + 11
HC có độ chính xác cao hơn BPD một chút,
do tránh được khả năng sai sót từ việc chỉ dựa trên một đường kính duy nhất của đầu
BPD: dùng khi thai đã ở vào cuối tam cá nguyệt thứ nhất cho đến khi thai 28 tuần.
TAM CÁ NGUYỆT II & III
SIÊU ÂM KO CÒN CHÍNH XÁC ĐỂ ĐỊNH TUỔI THAI
Có thể sử dụng các chỉ số sinh trắc có được qua siêu âm như
đường kính lưỡng đỉnh, chu vi đầu, chu vi bụng (adomen circumference AC) và chiều dài xương đùi (femur length FL) để tính tuổi thai.
BẤT LỢI
- khó khăn trong các trường hợp như khi đầu thai đã xuống thấp ở giai đoạn cuối thai kỳ, mẹ béo phì, đa thai
- mỗi chỉ số đều có thể sai lệch trong những trường hợp nhất định.
- BPD có thể không chính xác khi hộp sọ thai có hình dạng đặc biệt như hộp sọ dài hay brachycephaly,
- AC dễ sai số vì bụng không có xương bao quanh, không đối xứng mà sẽ thay đổi theo cử động thai,
- FL: thay đổi nhiều theo chủng tộc hoặc trong các bất thường như lệch bội hay bất sản xương.
Nếu dùng siêu âm
- tam cá nguyệt II, tuổi thai tính được có thể sai lệch 7-12 ngày
- tam cá nguyệt III sai lệch lên đến 18-35 ngày.
Khi thai càng lớn việc định tuổi thai càng không chính xác.
TỔNG KẾT
Phương pháp được dùng ở một số trung tâm sản khoa trên thế giới: phối hợp kỳ kinh cuối và siêu âm tam cá nguyệt I, trong đó siêu âm được dùng để xác định lại độ tin cậy của kỳ kinh cuối.
- Siêu âm tam cá nguyệt I là phương pháp tốt nhất để định tuổi thai với độ chính xác cao hơn ngày đầu chu kỳ kinh cuối kể cả khi thai phụ nhớ chính xác kỳ kinh cuối.
- Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào siêu âm đơn thuần có thể sai lệch trong những trường hợp thai quá to hay quá nhỏ, từ đó có thể che lấp một số trường hợp bất thường tuần hoàn nhau thai.
- Nếu sai lệch quá nhiều thì cần hiệu chỉnh lại tuổi thai
theo siêu âm. Cụ thể cần hiệu chỉnh:- nếu thai dưới 9 tuần mà sai lệch > 5 ngày,
- thai từ 9 tuần - 13 tuần 6 ngày mà sai lệch > 7 ngày.
Nếu chu kỳ kinh không đủ tiêu chuẩn hoặc không nhớ rõ kỳ kinh cuối thì xác định tuổi thai bằng siêu âm tam cá nguyệt I.
Nếu không có siêu âm tam cá nguyệt I, có thể dựa vào siêu âm sớm trong tam cá nguyệt II.